Trang

Photobucket

Thứ Ba, 26 tháng 11, 2013

kinh pháp bảo đàn phẩm thứ 3 Nghi Vấn



疑 問 第 三
 一 日,韋 刺 史 為 師 設 大 會 齋。齋 訖,
刺 史 請 師 陞 座,同 官 僚 士 庶 肅 容 再 拜,問 曰:「弟 子 聞 和 尚 說 法,實 不 可 思 議。今 有 少 疑,願 大 慈 悲,特 為 解 說。」師 曰:「有 疑 即 問,吾 當 說。」韋 公 曰:「和 尚 所 說,可 不 是 達 磨 大 師 宗 旨 乎?」
Nghi vấn đệ tam
Nhất nhật, Vi Thứ Sử vi sư thiết đại hội trai. Trai ngật, Thứ Sử thỉnh sư thăng tòa, đồng quan liêu sĩ thứ túc dung tái bái, vấn viết: “đệ tử văn hòa thượng thuyết pháp, thật bất khả tư nghị. Kim hữu thiểu nghi, nguyện đại từ bi, đặc vi giải thuyết. Sư viết: “hữu nghi tức vấn, ngô đương vi thuyết.” Vi công viết: “hòa thượng sở thuyết, khả bất thị Đạt Ma đại sư tông chỉ hồ?”
Chương thứ 3 Nghi Vấn
Một ngày nọ, Vi Thứ Sử thiết trai đại hội cúng dường. Khi thọ trai xong, Thứ Sử thỉnh sư thăng tòa, Thứ Sử cùng với quan viên học giả nho gia đồng làm lễ và xin hỏi: “đệ tử nghe hòa thượng thuyết pháp, thật không thể nghĩ bàn. Nay có chút nghi, xin hòa thượng đại từ bi giảng giải cho.
Sư dạy: có nghi cứ hỏi, Ta sẽ nói cho hiểu.
Vi Công thưa: “những điều hòa thường thuyết ra, có phải là tông chỉ của Tổ Đạt Ma đại sư không?”
師 曰:「是。」公 曰:「弟 子 聞:達 磨 初 化 梁 武 帝,帝 問 云:『朕 一 生 造 寺 度 僧、布 施 設 齋,有 何 功 德?』達 磨 言:『實 無 功 德。』弟 子 未 達 此 理,願 和 尚 為 說。」師 曰:「實 無 功 德,勿 疑 先 聖 之 言。武 帝 心 邪,不 知 正 法。造 寺 度 僧、布 施 設 齋,名 為 求 福,不 可 將 福 便 為 功 德。功 德 在 法 身 中,不 在 修 福。」
Sư viết: “thị” Công viết: “đệ tử văn: Đạt Ma sơ hóa Lương Võ Đế, Đế vấn viết: “Trẫm nhất sanh tạo tự độ tăng, bố thí thiết trai, hữu hà công đức?” Đạt Ma ngôn: “thiệt vô công đức”. Đệ tử vị Đạt Ma thử lý, nguyện hòa thượng vi thuyết. Sư viêt: “thiệt vô công đức, vật nghi tiên thánh chi ngôn. Võ Đế tâm tà, bất tri chánh pháp. Tạo tự độ tăng, bố thí thiết trai, danh vi cầu phước, bất khả tướng phước tiện vi công đức. Công đức tại pháp thân trung, bất tại tu phước.”
Sư nói: Phải.
Vi thứ Sử thưa:
Đệ tử nghe: xưa Đạt Ma sơ Tổ ban đầu hóa độ Lương Võ Đế, vua hỏi: “Trẫm một đời lập chùa, giúp tăng độ chúng bố thí thiết lễ trai hội, có công đức gì không?” Đạt Ma dạy: “Thật không có công đức gì cả”. Đệ tử chưa hiểu lý ấy, nguyện xin Hòa thượng giảng cho.
Sư dạy: Thật không công đức, chớ nghi lời của Thánh nhân xưa. Võ Đế tâm tà, không biết chánh pháp, tạo chùa, độ Tăng, bố thí, thiết lập trai đàn là chỉ cầu phước, không thể đem phước tướng mà bảo là công đức. Công đức ở ngay nơi Pháp thân, không do tu phước.
師 又 曰:「見 性 是 功,平 等 是 德。念 念 無 滯,常 見 本 性,真 實 妙 用,名 為 功 德。內 心 謙 下 是 功,外 行 於 禮 是 德。自 性 建 立 萬 法 是 功,心 體 離 念 是 德。不 離 自 性 是 功,應 用 無 染 是 德。若 覓 功 德 法 身,但 依 此 作,是 真 功 德。若 修 功 德 之 人,心 即 不 輕,常 行 普 敬。心 常 輕 人,吾 我 不 斷,即 自 無 功;自 性 虛 妄 不 實,即 自 無 德。為 吾 我 自 大,常 輕 一 切 故。善 知 識!念 念 無 間 是 功,心 行 平 直 是 德。自 修 性 是 功,自 修 身 是 德。
Sư hựu viết: “kiến tánh thị công, bình đẳng thị phước. niệm niệm vô trệ, thường kiến bổn tánh, chơn thật diệu dụng, danh vi công đức. Nội tâm khiêm hạ thị công, ngoại hành ư lễ thị đức. Tự tánh kiến lập vạn pháp thị công, tâm lễ ly niệm thị đức. Bất ly tự tánh thị công, ứng dụng vô nhiễm thị đức. Nhược mích công đức pháp thân, đản y thử tác, thị chơn công đức. Nhược tu công đức chi nhơn, tâm tức bất khinh, thường hành phổ kính. Tâm thường khinh nhơn, ngô ngã bất đoạn. Tức thị vô công, tự tánh hư vọng bất thật, tức thị vô đức. Vi ngô ngã tự đại, thường khinh nhứt thiết cố. Thiện tri thức! niệm niệm vô gian thị công, tâm hành bình trực thị đức. Tự tu tánh thị công, tự tu thân thị đức.
Sư dạy:Kiến tánh là công, bình đẳng là đức. Trong mỗi niệm không chướng ngại, thường thấy diệu dụng chơn thật của bản tánh gọi là công đức. Trong tâm khiêm hạ là công, ngoài thực hành lễ kính là đức. Tự tánh kiến lập vạn pháp là công, tâm thể ly niệm là đức. Không lìa tự tánh là công, ứng dụng không bị ô nhiễm là đức. Nếu tin Pháp thân công đức thì chỉ theo đây mà làm, ấy là công đức chơn thật. Người tu công đức thì không có tâm khinh rẻ, thường kính trọng tất cả. Nếu tâm thường khinh người, tánh cống cao ngã mạn không đoạn, là vô công. Tự tánh dối trá không chơn thật, là vô đức. Thiện tri thức! Niệm niệm không gián đoạn là công, tâm thực hành tánh bình đẳng là đức. Tự tu tánh là công, tự tu thân là đức.
善 知 識!功 德 須 自 性 內 見,不 是 布 施 供 養 之 所 求 也。是 以 福 德 與 功 德 別。武 帝 不 識 真 理,非 我 祖 師 有 過。」刺 史 又 問 曰:「弟 子 常 見 僧 俗 念 阿 彌 陀 佛,願 生 西 方。請 和 尚 說,得 生 彼 否?願 為 破 疑。」師 言:「使 君 善 聽,惠 能 與 說。世 尊 在 舍 衛 城 中,說 西 方 引 化。經 文 分 明,去 此 不 遠。若 論 相 說,里 數 有 十 萬 八 千,即 身 中 十 惡 八 邪,便 是 說 遠。說 遠 為 其 下 根,說 近 為 其 上 智。人 有 兩 種,法 無 兩 般。
Thiện tri thức! Công đức tu tự tánh nội kiến, bất thị bố thí cúng dưỡng chi sở cầu dã. Thị dĩ phước đức dữ công đức biệt. Võ Đế bất thức chơn lý, phi ngã tổ sư hữu quá.” Thứ Sử hựu vấn viết: “ đệ tử thường kiến tăng tục niệm A Di Đà Phật, nguyện sanh tây phương. Thỉnh hòa thượng thuyết, đắc sanh phủ? Nguyện vi phá nghi.” Sư ngôn: “ sử quân thiện thính, Huệ Năng dữ thuyết. Thế Tôn tại Xá Vệ thành trung, thuyết tây phương dẫn hóa. Kinh văn phân minh, khứ thử bất viễn. Nhược luận tướng thuyết, lý số hữu thập vạn bát thiên, tức thân trung thập ác bát tà, tiện thị thuyết viễn. Thuyết viễn vi kỳ hạ căn, thuyết cận vi kỳ thượng trí. Nhơn hữu lưỡng chủng, pháp vô lưỡng bát.
Thiện tri thức! Công đức là cốt thấy trong tự tánh, không phải tìm cầu nơi việc bố thí cúng dường. Vì phước đức và công đức khác nhau. Võ Đế không biết chơn lý, chứ không phải Tổ sư chúng ta nói sai.
Thứ sử lại hỏi:Đệ tử thường thấy tại gia, xuất gia niệm Phật A Di Đà  cầu sanh Tây phương tịnh độ, bạch Hòa thượng họ có vãng sanh không? Xin Ngài phá trừ nghi hoặc này cho.
Sứ quân hãy nghe kỹ, tôi sẽ nói. Đức Thế Tôn ở thành Xá Vệ nói Kinh Tây Phương Dẫn Hóa, kinh văn nói rõ ràng cách đây không xa, nếu xét về tướng thì số dặm có tới mười vạn tám ngàn, chỉ cho mười ác, tám tà trong thân, nên nói là xa. Nói xa là vì những người hạ căn mà nói. Nói gần là vì bậc thượng trí. Người có hai hạng, chứ pháp thì không hai.
迷 悟 有 殊,見 有 遲 疾。迷 人 念 佛 求 生 於 彼,悟 人 自 淨 其 心。所 以 佛 言:『隨 其 心 淨 即 佛 土 淨。』使 君 東 方 人,但 心 淨 即 無 罪。雖 西 方 人,心 不 淨 亦 有 愆。東 方 人 造 罪,念 佛 求 生 西 方。西 方 人 造 罪,念 佛 求 生 何 國?凡 愚 不 了 自 性,不 識 身 中 淨 土,願 東 願 西。悟 人 在 處 一 般,所 以 佛 言:『隨 所 住 處 恒 安 樂。』使 君 心 地 但 無 不 善,西 方 去 此 不 遙。若 懷 不 善 之 心,念 佛 往 生 難 到。今 勸 善 知 識,先 除 十 惡 即 行 十 萬,後 除 八 邪 乃 過 八 千。
Mê ngộ hữu thù, kiến hữu trì tật. Mê nhơn niệm Phật cầu sanh ư bỉ, ngộ nhơn tự tịnh kỳ tâm. Sở dĩ Phật ngôn: “tùy kỳ tâm tịnh tức Phật độ tịnh.” Sử quân đông phương nhơn, đản tâm tịnh tức vô tội. Tuy tây phương nhơn, tâm bất tịnh diệc hữu khiên. Đông phương nhơn tạo tội., niệm Phật cầu sanh tây phương. Tây phương nhơn tạo tội, niệm Phật cầu sanh hà quốc? phàm ngu bất liễu tự tánh, bất thức thân trung tịnh độ, nguyện động nguyện tây. Ngộ nhơn tại sứ nhứt bàn, sở dĩ Phật ngôn: “tùy sở trụ xứ hằng an lạc.” Sử quân tâm địa đản vô bất thiện, tây phương khứ thử bất diêu. Nhược hoài bất thiện chi tâm, niệm Phật vãng sanh nan đáo. Kim khuyến thiện tri thức, tiên trừ thập ác tức hành thập vạn, hậu trừ bát tà nãi quá bát thiên.
Do mê ngộ có khác nên thấy có chậm mau. Người mê niệm Phật cầu sanh Tịnh độ, người ngộ tự tịnh tâm mình, nên Phật dạy: “Do tâm tịnh mà Phật độ tịnh”.
Kẻ phàm phu không liễu đạt tự tánh, không biết Tịnh độ trong tâm, nên nguyện Đông nguyện Tây. Còn người ngộ thì ở đâu cũng thế. Cho nên, Phật dạy: “Tùy sở trú xứ thường an lạc”. [Ở chỗ nào cũng hằng an vui]. Nếu Sứ quân được cái tâm địa không có chỗ nào bất thiện, thì Tây phương cách đây không xa. Nếu ôm lòng bất thiện mà niệm Phật cầu vãng sanh thì khó mà đến. Nay tôi khuyến cáo Thiện tri thức hãy từ bỏ mười điều ác, tức là đi được mười vạn dặm. Sau trừ tám việc tà là đi thêm tám ngàn dặm. Mỗi niệm thường thấy tánh, thường thực hành bình đẳng và chánh trực, thì đến Tây phương như trong một khảy móng tay, bèn thấy Di Đà. Sứ quân chỉ cần thực hành mười thiện nghiệp, thì cần chi phải nguyện vãng sanh. Còn cái tâm không chịu đoạn mười điều ác thì Phật nào mà tới rước. Nếu ngộ được Đốn pháp vô sanh thì thấy Tây phương tức khắc, không ngộ thì niệm Phật cầu vãng sanh, đường xa làm sao tới được. Huệ Năng nay dời cõi Tây phương đến cho chư vị thấy ngay trước mắt, quý vị có muốn không?
念 念 見 性,常 行 平 直,到 如 彈 指,便 睹 彌 陀。使 君 但 行 十 善,何 須 更 願 往 生?不 斷 十 惡 之 心,何 佛 即 來 迎 請?若 悟 無 生 頓 法,見 西 方 只 在 剎 那。不 悟 念 佛 求 生,路 遙 如 何 得 達。惠 能 與 諸 人,移 西 方 於 剎 那 間,目 前 便 見。各 願 見 否?」 
Niệm niệm kiến tánh, thường hành bình trực, đáo như đàn chỉ, tiện đổ Di Đà. Sử quân đản hành thập thiện, hà tu cánh nguyện vãng sanh? Bất đoạn thập ác chi tâm, hà Phật tức lai nghênh thỉnh? Nhược ngộ vô sanh đốn pháp, kiến tây phương chỉ tại sát na. Bất ngộ niệm Phật cầu sanh, lộ diêu như hà đắc đạt. Huệ Năng dữ chư nhơn, di tây phương ư sát na gian, mục tiền tiện kiến. các nguyện kiến phủ?”
 Mỗi niệm thường thấy tánh, thường thực hành bình đẳng và chánh trực, thì đến Tây phương như trong một khảy móng tay, liền thấy Di Đà. Sứ quân chỉ cần thực hành mười thiện nghiệp, thì cần chi phải nguyện vãng sanh. Còn cái tâm không chịu đoạn mười điều ác thì Phật nào mà tới rước. Nếu ngộ được Đốn pháp vô sanh thì thấy Tây phương tức khắc, không ngộ thì niệm Phật cầu vãng sanh, đường xa làm sao tới được. Huệ Năng nay dời cõi Tây phương đến cho chư vị thấy ngay trước mắt, quý vị có muốn không?
眾 皆 頂 禮 云:「若 此 處 見,何 須 更 願 往 生?願 和 尚 慈 悲,便 現 西 方,普 令 得 見。」
Chúng giai đảnh lễ vân: “ nhược thử xứ kiến, hà tu cánh nguyện vãng sanh? Nguyện hòa thượng từ bi, tiện hiện tây phương, phổ linh đắc kiến.”
Đại chúng đảnh lễ và  thưa: Nếu ngay ở đây mà thấy được, thì cần chi phải nguyện vãng sanh? Xin Hòa thượng từ bi hiện cảnh Tây phương cho, khiến tất cả đều được thấy.
師 言:「大 眾!世 人 自 色 身 是 城,眼 耳 鼻 舌 是 門,外 有 五 門,內 有 意 門。心 是 地,性 是 王。王 居 心 地 上,性 在 王 在,性 去 王 無。性 在 身 心 存,性 去 身 壞。佛 向 性 中 作,莫 向 身 外 求。自 性 迷 即 是 眾 生,自 性 覺 即 是 佛。慈 悲 即 是 觀 音,喜 捨 名 為 勢 至,能 淨 即 釋 迦,平 直 即 彌 陀;人 我 是 須 彌,貪 欲 是 海 水,煩 惱 是 波 浪,毒 害 是 惡 龍,虛 妄 是 鬼 神,塵 勞 是 魚 鱉。貪 瞋 是 地 獄,愚 癡 是 畜 生。善 知 識!常 行 十 善,天 堂 便 至。除 人 我,須 彌 倒;去 貪 欲,海 水 竭;煩 惱 無,波 浪 滅;毒 害 除,魚 龍 絕。
Sư ngôn: “đại chúng! Thế nhơn tự sắc thân thị thành, nhãn nhĩ tỷ thiệt thị môn, ngoại hữu ngũ môn, nội hữu ý môn.Tâm thị địa, tánh thị vương. Vương cư tâm địa thượng, tánh tại vương tại, tánh khứ vương vô. Tánh tại thân tâm tồn, tánh khứ thân hoại. Phật hướng tánh trung tác, mạc hướng thân ngoại cầu. Tự tánh mê tức thị chúng sanh, tự tánh giác tức thị Phật. Từ bi tức thị Quán Âm, hỷ xả danh vi Thế Chí, năng tịnh tức Thích Ca, bình trực tức Di Đà; nhơn ngã thị tu di, tham dục thị hải thủy, phiền não thị ba lãng, độc hại thị ác long, hư vọng thị quỷ thần, trần lao thị ngư miết. Tham sân thị địa ngục, ngu si thị súc sanh. Thiện tri thức! thường hành thập thiện, thiên đường thiện chí. Trừ nhơn ngã, tu di đảo; khử tham dục, hải thủy khát; phiền ão vô, ba lãng diệt; độc hại trừ, ngư long tuyệt.
Sư dạy: Đại chúng! Sắc thân con người là thành, mắt tai mũi lưỡi là cửa, ngoài có năm cửa, trong có cửa ý. Tâm là đất, tánh là vua, vua ở trên đất tâm, tánh ở thì vua ở, tánh đi thì vua đi. Tánh còn thì thân tâm còn, tánh đi thì thân tâm hoại. Phật do nơi tánh mà tìm, chớ tìm bên ngoài thân. Tự tánh mê tức là chúng sanh. Tự tánh giác tức là Phật. Từ bi là Quán Âm, hỷ xả là Thế Chí, năng tịnh là Thích ca, bình trực là Di Đà. Tâm nhân ngã là núi Tu Di, tâm tà vạy là biển cả, tâm phiền não là sóng cồn, tâm độc hại là rồng rắn, tâm dối trá là quỷ thần, tâm trần lao là tôm cá, tham sân là địa ngục, ngu si là súc sanh. Thiện tri thức! Thường làm mười thiện nghiệp, thì thiên đường hiển hiện. Trừ tâm nhân ngã, thì núi Tu Di sụp đổ, bỏ tâm tà vạy thì nước biển khô cạn, không phiền não thì sóng lặng, độc hại tiêu thì cá tôm hết.
自 心 地 上 覺 性,如 來 放 大 光 明;外 照 六 門 清 淨,能 破 六 欲 諸 天;自 性 內 照,三 毒 即 除;地 獄 等 罪 一 時 銷 滅,內 外 明 徹 不 異 西 方。不 作 此 修,如 何 到 彼?」大 眾 聞 說,了 然 見 性,悉 皆 禮 拜,俱 歎 善 哉。唱 言:「普 願 法 界 眾 生,聞 者 一 時 悟 解。」師 言:「善 知 識!若 欲 修 行,在 家 亦 得,不 由 在 寺。在 家 能 行,如 東 方 人 心 善;在 寺 不 修,如 西 方 人 心 惡。但 心 清 淨,即 是 自 性 西 方。」 
Tự tâm địa thượng giác tánh, Như Lai phóng đại quang minh; ngoại chiếu lục môn thanh tịnh, năng phá lục dục chư thiên; tự tánh nội chiếu, tam độc tức trừ; địa ngục đẳng tội nhứt thời tiêu diệt, nội ngoại minh triệt bất dị tây phương. Bất tác thử tu, nhu hà đáo bỉ?” Đại chúng văn thuyết, liễu nhiên kiến tánh, tất giai lễ bái, câu thán thiện tai. Xướng ngôn: “phổ nguyện pháp giới chúng sanh, văn giả nhứt thời ngộ giải.” sư ngôn: “Thiện tri thức! nhược dục tu hành, tại gia diệc đắc, bất do tại tự. Tại gia năng hành, như đông phương nhơn tâm thiện; tại tự bất tu, như tây phương nhơn tâm ác. Đản tâm thanh tịnh, tức thị tự tánh tây phương.”
Ngay trên mãnh đất tự tâm, cái giác tánh, tức Phật Như Lai phóng đại quang minh, bên ngoài chiếu ra sáu cửa thanh tịnh, có thể phá được sáu cõi trời Dục giới, tự tánh chiếu bên trong, thì ba độc dứt trừ, các tội báo địa ngục đồng thời tiêu diệt. Trong ngoài sáng suốt thì có khác gì cõi Tây phương? Không tu như thế, thì làm sao đến cõi ấy?
Đại chúng nghe nói, đều thấy rõ tự tánh, đồng đảnh lễ tán thán, nguyện khắp pháp giới chúng sanh nghe đó đều được giải ngộ
Sư dạy:Thiện tri thức! Nếu tu hạnh này thì tại gia vẫn tu được, không cần ở chùa. Tại gia làm được vậy thì như người phương Đông mà tâm lành, ở chùa mà không tu thì như phương tây mà làm ác. Chỉ cần tâm thanh tịnh thì tự tánh là Tây phương.
韋 公 又 問:「在 家 如 何 修 行?願 為 教 授。」師 言:「吾 與 大 眾 說 無 相 頌。但 依 此 修,常 與 吾 同 處 無 別;若 不 依 此 修,剃 髮 出 家 於 道 何 益?頌 曰:
Vi công hựu vấn: “ tại gia như hà tu hành? Nguyện vi giáo thọ.” Sư ngôn: “ ngô dữ đại chúng thuyết vô tướng tụng. đản y thử tu, thường dữ ngô đồng xứ vô biệt; nhược bất y thử tu, thế phát xuất gia ư đạo hà ích? Tụng viết:
Vị thứ sử hỏi:Tại gia làm sao tu hành, xin Đại sư chỉ dạy.
Sư nói: Tôi nay nói bài tụng Vô tướng cho đại chúng. Chỉ cần y theo đó mà tu, thì không khác gì cùng ở một chỗ với tôi. Nếu không tu theo đó, thì có cạo tóc xuất gia cũng không ích gì cho đạo. Tụng rằng:

「心 平 何 勞 持 戒,  
行 直 何 用 修 禪!
恩 則 孝 養 父 母,
義 則 上 下 相 憐,
讓 則 尊 卑 和 睦,
忍 則 眾 惡 無 諠,
若 能 鑽 木 出 火,
淤 泥 定 生 紅 蓮。
苦 口 的 是 良 藥,
逆 耳 必 是 忠 言,
改 過 必 生 智 慧,
護 短 心 內 非 賢。
日 用 常 行 饒 益,
成 道 非 由 施 錢,
菩 提 只 向 心 覓,
何 勞 向 外 求 玄。
說 依 此 修 行,
西 方 只 在 目 前。」
Tam bình hà lao trì giới
Hành trực hà dụng tu thiền
Ân tắc hiếu dưỡng phụ mẫu,
Nghĩa tắc thượng hạ tương lân,
Nhượng tắc tôn ty hòa mục
Nhẫn tắc chúng ác vô tuyên
Nhược năng toản mộc xuất hỏa,
ứ nên định sanh hồng liên
Khổ khẩu đích thị lương dược
Nghịch nhĩ tất thị trung ngôn,
Cải quá tất sanh trí huệ,
Hộ đoản tâm nội phi hiền.
Nhựt dụng thường hành nhiêu ích
Thành đạo phi do thí tiền,
Bồ đề chỉ hướng tâm mích,
Hà lao hướng ngoại cầu huyền.
Thính thuyết y thử tu hanh,
Tây phương chỉ tại mục tiền.
Tâm bình chính là giữ giới
Hạnh thẳng đâu cần tu thiền
Ơn thì phụng dưỡng cha mẹ
Nghĩa thì trên dưới thương nhau
phải biết  tôn ti hòa mục
Nhẫn thì mọi lỗi không còn
Nếu cưa được cây lấy lửa
Bùn đọng quyết mọc sen hồng
Thuốc đắng miệng là thuốc tốt
Trái tai tức là lời ngay
Sữa lỗi liền sanh trí tuệ
Ôm lầm tâm chẳng phải hiền
Hằng ngày thường làm việc ích
Hành đạo không do xuất tiền
Bồ đề ngay nơi tâm kiếm
Ích chi hướng ngoại tìm cầu
Nghe giáo nương theo tu hành
Thiên đường ở ngay trước mắt
.
師 復 曰 :「善 知 識!總 須 依 偈 修 行,見 取 自 性,直 成 佛 道。時 不 相 待,眾 人 且 散,吾 歸 曹 溪。眾 若 有 疑,卻 來 相 問。」時,刺 史 官 僚、在 會 善 男 信 女,各 得 開 悟,信 受 奉 行。
Sư phục viết: “thiện tri thức! tổng tu y kệ tu hành, kiến thủ tự tánh, trực thành Phật đạo. Thời bất tương đãi, chúng nhơn thả tán, ngô quy tào khê. Chúng nhược hữu nghi, khước lai tương vấn.” thời, Thứ Sử quan liêu, tại hội thiện nam tín nữ, các đắc khai ngộ, tín thọ phụng hành.
            Sư lại dạy: Thiện tri thức! Hãy nương theo đó tu hành mà thấy tánh thành Phật. Pháp không thể đợi, các ngươi nên giải tán. Tôi nay về Tào Khê. Có ai nghi điều gì thì cứ đến hỏi.
 Vi thứ sử, quan liêu trong hội cùng thiện nam tín nữ đều được khai ngộ, tín thọ phụng hành.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét