Trang

Photobucket

Thứ Năm, 5 tháng 12, 2013

bài toán cổ



Toán cổ:100 bánh ít 100 người ta, Đàn ông ăn 3, Đàn bà ăn 2, Trẻ nhỏ 2 đứa 1 cái. Hỏi bao nhiêu người đàn ông, bao nhiêu đàn bà, và bao nhiêu trẻ em.
Giải
Giải lụi. Hi hi hi!
Một lần dùng 1 đàn ông.1 đàn bà .2 trẻ em =3bánh .2 bánh .1 bánh.Tức là mỗi lần ăn 4 người 6 cái bánh.
Như vậy với tỉ lệ này là một số phải chia hết cho 4 và cho 6, và < 100, đó là số:12; 24; 36; 48; 56; 72; 84; 96. trong những số này chỉ có số 72 là hợp lệ
Giả sử 72 đàn ông là không hợp lệ
72, phụ nữ cũng không hợp lệ
Chỉ có 72 là trẻ em, thì số lượng bánh là 72: 2= 36
100-72= 28 người
100-36= 64 bánh
72:6 =12= 36 cái, đàn ông
72:4= 18= 36 cái, phụ nữ
72+12+18=102 người
36+36+36=108 bánh
Dư 8 bánh và 2 người.
Tỉ lệ 1. đàn ông. 1 phụ nữ dùng bánh là 3:2 tức là 2 người: 5 bánh tức tương đương tỉ lệ 1:2<5
Như vậy tăng 1 phụ nữ thì giảm 2 người đàn ông, tăng 2 phụ nữa giảm 4 người đàn ông.
Như thế ta có đáp án: 72 trẻ em , 8 đàn ông, 20 phụ nữ
Số bánh ăn tương ứng: 36; 24, 40


Do ông cụ 85 tuổi đố mà nhiều người giải không ra đáp số, mình giải lụi cho zui. Thị Tấn, mời các bạn giải bài bản hơn

Thứ Ba, 26 tháng 11, 2013

kinh pháp bảo đàn phẩm thứ 3 Nghi Vấn



疑 問 第 三
 一 日,韋 刺 史 為 師 設 大 會 齋。齋 訖,
刺 史 請 師 陞 座,同 官 僚 士 庶 肅 容 再 拜,問 曰:「弟 子 聞 和 尚 說 法,實 不 可 思 議。今 有 少 疑,願 大 慈 悲,特 為 解 說。」師 曰:「有 疑 即 問,吾 當 說。」韋 公 曰:「和 尚 所 說,可 不 是 達 磨 大 師 宗 旨 乎?」
Nghi vấn đệ tam
Nhất nhật, Vi Thứ Sử vi sư thiết đại hội trai. Trai ngật, Thứ Sử thỉnh sư thăng tòa, đồng quan liêu sĩ thứ túc dung tái bái, vấn viết: “đệ tử văn hòa thượng thuyết pháp, thật bất khả tư nghị. Kim hữu thiểu nghi, nguyện đại từ bi, đặc vi giải thuyết. Sư viết: “hữu nghi tức vấn, ngô đương vi thuyết.” Vi công viết: “hòa thượng sở thuyết, khả bất thị Đạt Ma đại sư tông chỉ hồ?”
Chương thứ 3 Nghi Vấn
Một ngày nọ, Vi Thứ Sử thiết trai đại hội cúng dường. Khi thọ trai xong, Thứ Sử thỉnh sư thăng tòa, Thứ Sử cùng với quan viên học giả nho gia đồng làm lễ và xin hỏi: “đệ tử nghe hòa thượng thuyết pháp, thật không thể nghĩ bàn. Nay có chút nghi, xin hòa thượng đại từ bi giảng giải cho.
Sư dạy: có nghi cứ hỏi, Ta sẽ nói cho hiểu.
Vi Công thưa: “những điều hòa thường thuyết ra, có phải là tông chỉ của Tổ Đạt Ma đại sư không?”
師 曰:「是。」公 曰:「弟 子 聞:達 磨 初 化 梁 武 帝,帝 問 云:『朕 一 生 造 寺 度 僧、布 施 設 齋,有 何 功 德?』達 磨 言:『實 無 功 德。』弟 子 未 達 此 理,願 和 尚 為 說。」師 曰:「實 無 功 德,勿 疑 先 聖 之 言。武 帝 心 邪,不 知 正 法。造 寺 度 僧、布 施 設 齋,名 為 求 福,不 可 將 福 便 為 功 德。功 德 在 法 身 中,不 在 修 福。」
Sư viết: “thị” Công viết: “đệ tử văn: Đạt Ma sơ hóa Lương Võ Đế, Đế vấn viết: “Trẫm nhất sanh tạo tự độ tăng, bố thí thiết trai, hữu hà công đức?” Đạt Ma ngôn: “thiệt vô công đức”. Đệ tử vị Đạt Ma thử lý, nguyện hòa thượng vi thuyết. Sư viêt: “thiệt vô công đức, vật nghi tiên thánh chi ngôn. Võ Đế tâm tà, bất tri chánh pháp. Tạo tự độ tăng, bố thí thiết trai, danh vi cầu phước, bất khả tướng phước tiện vi công đức. Công đức tại pháp thân trung, bất tại tu phước.”
Sư nói: Phải.
Vi thứ Sử thưa:
Đệ tử nghe: xưa Đạt Ma sơ Tổ ban đầu hóa độ Lương Võ Đế, vua hỏi: “Trẫm một đời lập chùa, giúp tăng độ chúng bố thí thiết lễ trai hội, có công đức gì không?” Đạt Ma dạy: “Thật không có công đức gì cả”. Đệ tử chưa hiểu lý ấy, nguyện xin Hòa thượng giảng cho.
Sư dạy: Thật không công đức, chớ nghi lời của Thánh nhân xưa. Võ Đế tâm tà, không biết chánh pháp, tạo chùa, độ Tăng, bố thí, thiết lập trai đàn là chỉ cầu phước, không thể đem phước tướng mà bảo là công đức. Công đức ở ngay nơi Pháp thân, không do tu phước.
師 又 曰:「見 性 是 功,平 等 是 德。念 念 無 滯,常 見 本 性,真 實 妙 用,名 為 功 德。內 心 謙 下 是 功,外 行 於 禮 是 德。自 性 建 立 萬 法 是 功,心 體 離 念 是 德。不 離 自 性 是 功,應 用 無 染 是 德。若 覓 功 德 法 身,但 依 此 作,是 真 功 德。若 修 功 德 之 人,心 即 不 輕,常 行 普 敬。心 常 輕 人,吾 我 不 斷,即 自 無 功;自 性 虛 妄 不 實,即 自 無 德。為 吾 我 自 大,常 輕 一 切 故。善 知 識!念 念 無 間 是 功,心 行 平 直 是 德。自 修 性 是 功,自 修 身 是 德。
Sư hựu viết: “kiến tánh thị công, bình đẳng thị phước. niệm niệm vô trệ, thường kiến bổn tánh, chơn thật diệu dụng, danh vi công đức. Nội tâm khiêm hạ thị công, ngoại hành ư lễ thị đức. Tự tánh kiến lập vạn pháp thị công, tâm lễ ly niệm thị đức. Bất ly tự tánh thị công, ứng dụng vô nhiễm thị đức. Nhược mích công đức pháp thân, đản y thử tác, thị chơn công đức. Nhược tu công đức chi nhơn, tâm tức bất khinh, thường hành phổ kính. Tâm thường khinh nhơn, ngô ngã bất đoạn. Tức thị vô công, tự tánh hư vọng bất thật, tức thị vô đức. Vi ngô ngã tự đại, thường khinh nhứt thiết cố. Thiện tri thức! niệm niệm vô gian thị công, tâm hành bình trực thị đức. Tự tu tánh thị công, tự tu thân thị đức.
Sư dạy:Kiến tánh là công, bình đẳng là đức. Trong mỗi niệm không chướng ngại, thường thấy diệu dụng chơn thật của bản tánh gọi là công đức. Trong tâm khiêm hạ là công, ngoài thực hành lễ kính là đức. Tự tánh kiến lập vạn pháp là công, tâm thể ly niệm là đức. Không lìa tự tánh là công, ứng dụng không bị ô nhiễm là đức. Nếu tin Pháp thân công đức thì chỉ theo đây mà làm, ấy là công đức chơn thật. Người tu công đức thì không có tâm khinh rẻ, thường kính trọng tất cả. Nếu tâm thường khinh người, tánh cống cao ngã mạn không đoạn, là vô công. Tự tánh dối trá không chơn thật, là vô đức. Thiện tri thức! Niệm niệm không gián đoạn là công, tâm thực hành tánh bình đẳng là đức. Tự tu tánh là công, tự tu thân là đức.
善 知 識!功 德 須 自 性 內 見,不 是 布 施 供 養 之 所 求 也。是 以 福 德 與 功 德 別。武 帝 不 識 真 理,非 我 祖 師 有 過。」刺 史 又 問 曰:「弟 子 常 見 僧 俗 念 阿 彌 陀 佛,願 生 西 方。請 和 尚 說,得 生 彼 否?願 為 破 疑。」師 言:「使 君 善 聽,惠 能 與 說。世 尊 在 舍 衛 城 中,說 西 方 引 化。經 文 分 明,去 此 不 遠。若 論 相 說,里 數 有 十 萬 八 千,即 身 中 十 惡 八 邪,便 是 說 遠。說 遠 為 其 下 根,說 近 為 其 上 智。人 有 兩 種,法 無 兩 般。
Thiện tri thức! Công đức tu tự tánh nội kiến, bất thị bố thí cúng dưỡng chi sở cầu dã. Thị dĩ phước đức dữ công đức biệt. Võ Đế bất thức chơn lý, phi ngã tổ sư hữu quá.” Thứ Sử hựu vấn viết: “ đệ tử thường kiến tăng tục niệm A Di Đà Phật, nguyện sanh tây phương. Thỉnh hòa thượng thuyết, đắc sanh phủ? Nguyện vi phá nghi.” Sư ngôn: “ sử quân thiện thính, Huệ Năng dữ thuyết. Thế Tôn tại Xá Vệ thành trung, thuyết tây phương dẫn hóa. Kinh văn phân minh, khứ thử bất viễn. Nhược luận tướng thuyết, lý số hữu thập vạn bát thiên, tức thân trung thập ác bát tà, tiện thị thuyết viễn. Thuyết viễn vi kỳ hạ căn, thuyết cận vi kỳ thượng trí. Nhơn hữu lưỡng chủng, pháp vô lưỡng bát.
Thiện tri thức! Công đức là cốt thấy trong tự tánh, không phải tìm cầu nơi việc bố thí cúng dường. Vì phước đức và công đức khác nhau. Võ Đế không biết chơn lý, chứ không phải Tổ sư chúng ta nói sai.
Thứ sử lại hỏi:Đệ tử thường thấy tại gia, xuất gia niệm Phật A Di Đà  cầu sanh Tây phương tịnh độ, bạch Hòa thượng họ có vãng sanh không? Xin Ngài phá trừ nghi hoặc này cho.
Sứ quân hãy nghe kỹ, tôi sẽ nói. Đức Thế Tôn ở thành Xá Vệ nói Kinh Tây Phương Dẫn Hóa, kinh văn nói rõ ràng cách đây không xa, nếu xét về tướng thì số dặm có tới mười vạn tám ngàn, chỉ cho mười ác, tám tà trong thân, nên nói là xa. Nói xa là vì những người hạ căn mà nói. Nói gần là vì bậc thượng trí. Người có hai hạng, chứ pháp thì không hai.
迷 悟 有 殊,見 有 遲 疾。迷 人 念 佛 求 生 於 彼,悟 人 自 淨 其 心。所 以 佛 言:『隨 其 心 淨 即 佛 土 淨。』使 君 東 方 人,但 心 淨 即 無 罪。雖 西 方 人,心 不 淨 亦 有 愆。東 方 人 造 罪,念 佛 求 生 西 方。西 方 人 造 罪,念 佛 求 生 何 國?凡 愚 不 了 自 性,不 識 身 中 淨 土,願 東 願 西。悟 人 在 處 一 般,所 以 佛 言:『隨 所 住 處 恒 安 樂。』使 君 心 地 但 無 不 善,西 方 去 此 不 遙。若 懷 不 善 之 心,念 佛 往 生 難 到。今 勸 善 知 識,先 除 十 惡 即 行 十 萬,後 除 八 邪 乃 過 八 千。
Mê ngộ hữu thù, kiến hữu trì tật. Mê nhơn niệm Phật cầu sanh ư bỉ, ngộ nhơn tự tịnh kỳ tâm. Sở dĩ Phật ngôn: “tùy kỳ tâm tịnh tức Phật độ tịnh.” Sử quân đông phương nhơn, đản tâm tịnh tức vô tội. Tuy tây phương nhơn, tâm bất tịnh diệc hữu khiên. Đông phương nhơn tạo tội., niệm Phật cầu sanh tây phương. Tây phương nhơn tạo tội, niệm Phật cầu sanh hà quốc? phàm ngu bất liễu tự tánh, bất thức thân trung tịnh độ, nguyện động nguyện tây. Ngộ nhơn tại sứ nhứt bàn, sở dĩ Phật ngôn: “tùy sở trụ xứ hằng an lạc.” Sử quân tâm địa đản vô bất thiện, tây phương khứ thử bất diêu. Nhược hoài bất thiện chi tâm, niệm Phật vãng sanh nan đáo. Kim khuyến thiện tri thức, tiên trừ thập ác tức hành thập vạn, hậu trừ bát tà nãi quá bát thiên.
Do mê ngộ có khác nên thấy có chậm mau. Người mê niệm Phật cầu sanh Tịnh độ, người ngộ tự tịnh tâm mình, nên Phật dạy: “Do tâm tịnh mà Phật độ tịnh”.
Kẻ phàm phu không liễu đạt tự tánh, không biết Tịnh độ trong tâm, nên nguyện Đông nguyện Tây. Còn người ngộ thì ở đâu cũng thế. Cho nên, Phật dạy: “Tùy sở trú xứ thường an lạc”. [Ở chỗ nào cũng hằng an vui]. Nếu Sứ quân được cái tâm địa không có chỗ nào bất thiện, thì Tây phương cách đây không xa. Nếu ôm lòng bất thiện mà niệm Phật cầu vãng sanh thì khó mà đến. Nay tôi khuyến cáo Thiện tri thức hãy từ bỏ mười điều ác, tức là đi được mười vạn dặm. Sau trừ tám việc tà là đi thêm tám ngàn dặm. Mỗi niệm thường thấy tánh, thường thực hành bình đẳng và chánh trực, thì đến Tây phương như trong một khảy móng tay, bèn thấy Di Đà. Sứ quân chỉ cần thực hành mười thiện nghiệp, thì cần chi phải nguyện vãng sanh. Còn cái tâm không chịu đoạn mười điều ác thì Phật nào mà tới rước. Nếu ngộ được Đốn pháp vô sanh thì thấy Tây phương tức khắc, không ngộ thì niệm Phật cầu vãng sanh, đường xa làm sao tới được. Huệ Năng nay dời cõi Tây phương đến cho chư vị thấy ngay trước mắt, quý vị có muốn không?
念 念 見 性,常 行 平 直,到 如 彈 指,便 睹 彌 陀。使 君 但 行 十 善,何 須 更 願 往 生?不 斷 十 惡 之 心,何 佛 即 來 迎 請?若 悟 無 生 頓 法,見 西 方 只 在 剎 那。不 悟 念 佛 求 生,路 遙 如 何 得 達。惠 能 與 諸 人,移 西 方 於 剎 那 間,目 前 便 見。各 願 見 否?」 
Niệm niệm kiến tánh, thường hành bình trực, đáo như đàn chỉ, tiện đổ Di Đà. Sử quân đản hành thập thiện, hà tu cánh nguyện vãng sanh? Bất đoạn thập ác chi tâm, hà Phật tức lai nghênh thỉnh? Nhược ngộ vô sanh đốn pháp, kiến tây phương chỉ tại sát na. Bất ngộ niệm Phật cầu sanh, lộ diêu như hà đắc đạt. Huệ Năng dữ chư nhơn, di tây phương ư sát na gian, mục tiền tiện kiến. các nguyện kiến phủ?”
 Mỗi niệm thường thấy tánh, thường thực hành bình đẳng và chánh trực, thì đến Tây phương như trong một khảy móng tay, liền thấy Di Đà. Sứ quân chỉ cần thực hành mười thiện nghiệp, thì cần chi phải nguyện vãng sanh. Còn cái tâm không chịu đoạn mười điều ác thì Phật nào mà tới rước. Nếu ngộ được Đốn pháp vô sanh thì thấy Tây phương tức khắc, không ngộ thì niệm Phật cầu vãng sanh, đường xa làm sao tới được. Huệ Năng nay dời cõi Tây phương đến cho chư vị thấy ngay trước mắt, quý vị có muốn không?
眾 皆 頂 禮 云:「若 此 處 見,何 須 更 願 往 生?願 和 尚 慈 悲,便 現 西 方,普 令 得 見。」
Chúng giai đảnh lễ vân: “ nhược thử xứ kiến, hà tu cánh nguyện vãng sanh? Nguyện hòa thượng từ bi, tiện hiện tây phương, phổ linh đắc kiến.”
Đại chúng đảnh lễ và  thưa: Nếu ngay ở đây mà thấy được, thì cần chi phải nguyện vãng sanh? Xin Hòa thượng từ bi hiện cảnh Tây phương cho, khiến tất cả đều được thấy.
師 言:「大 眾!世 人 自 色 身 是 城,眼 耳 鼻 舌 是 門,外 有 五 門,內 有 意 門。心 是 地,性 是 王。王 居 心 地 上,性 在 王 在,性 去 王 無。性 在 身 心 存,性 去 身 壞。佛 向 性 中 作,莫 向 身 外 求。自 性 迷 即 是 眾 生,自 性 覺 即 是 佛。慈 悲 即 是 觀 音,喜 捨 名 為 勢 至,能 淨 即 釋 迦,平 直 即 彌 陀;人 我 是 須 彌,貪 欲 是 海 水,煩 惱 是 波 浪,毒 害 是 惡 龍,虛 妄 是 鬼 神,塵 勞 是 魚 鱉。貪 瞋 是 地 獄,愚 癡 是 畜 生。善 知 識!常 行 十 善,天 堂 便 至。除 人 我,須 彌 倒;去 貪 欲,海 水 竭;煩 惱 無,波 浪 滅;毒 害 除,魚 龍 絕。
Sư ngôn: “đại chúng! Thế nhơn tự sắc thân thị thành, nhãn nhĩ tỷ thiệt thị môn, ngoại hữu ngũ môn, nội hữu ý môn.Tâm thị địa, tánh thị vương. Vương cư tâm địa thượng, tánh tại vương tại, tánh khứ vương vô. Tánh tại thân tâm tồn, tánh khứ thân hoại. Phật hướng tánh trung tác, mạc hướng thân ngoại cầu. Tự tánh mê tức thị chúng sanh, tự tánh giác tức thị Phật. Từ bi tức thị Quán Âm, hỷ xả danh vi Thế Chí, năng tịnh tức Thích Ca, bình trực tức Di Đà; nhơn ngã thị tu di, tham dục thị hải thủy, phiền não thị ba lãng, độc hại thị ác long, hư vọng thị quỷ thần, trần lao thị ngư miết. Tham sân thị địa ngục, ngu si thị súc sanh. Thiện tri thức! thường hành thập thiện, thiên đường thiện chí. Trừ nhơn ngã, tu di đảo; khử tham dục, hải thủy khát; phiền ão vô, ba lãng diệt; độc hại trừ, ngư long tuyệt.
Sư dạy: Đại chúng! Sắc thân con người là thành, mắt tai mũi lưỡi là cửa, ngoài có năm cửa, trong có cửa ý. Tâm là đất, tánh là vua, vua ở trên đất tâm, tánh ở thì vua ở, tánh đi thì vua đi. Tánh còn thì thân tâm còn, tánh đi thì thân tâm hoại. Phật do nơi tánh mà tìm, chớ tìm bên ngoài thân. Tự tánh mê tức là chúng sanh. Tự tánh giác tức là Phật. Từ bi là Quán Âm, hỷ xả là Thế Chí, năng tịnh là Thích ca, bình trực là Di Đà. Tâm nhân ngã là núi Tu Di, tâm tà vạy là biển cả, tâm phiền não là sóng cồn, tâm độc hại là rồng rắn, tâm dối trá là quỷ thần, tâm trần lao là tôm cá, tham sân là địa ngục, ngu si là súc sanh. Thiện tri thức! Thường làm mười thiện nghiệp, thì thiên đường hiển hiện. Trừ tâm nhân ngã, thì núi Tu Di sụp đổ, bỏ tâm tà vạy thì nước biển khô cạn, không phiền não thì sóng lặng, độc hại tiêu thì cá tôm hết.
自 心 地 上 覺 性,如 來 放 大 光 明;外 照 六 門 清 淨,能 破 六 欲 諸 天;自 性 內 照,三 毒 即 除;地 獄 等 罪 一 時 銷 滅,內 外 明 徹 不 異 西 方。不 作 此 修,如 何 到 彼?」大 眾 聞 說,了 然 見 性,悉 皆 禮 拜,俱 歎 善 哉。唱 言:「普 願 法 界 眾 生,聞 者 一 時 悟 解。」師 言:「善 知 識!若 欲 修 行,在 家 亦 得,不 由 在 寺。在 家 能 行,如 東 方 人 心 善;在 寺 不 修,如 西 方 人 心 惡。但 心 清 淨,即 是 自 性 西 方。」 
Tự tâm địa thượng giác tánh, Như Lai phóng đại quang minh; ngoại chiếu lục môn thanh tịnh, năng phá lục dục chư thiên; tự tánh nội chiếu, tam độc tức trừ; địa ngục đẳng tội nhứt thời tiêu diệt, nội ngoại minh triệt bất dị tây phương. Bất tác thử tu, nhu hà đáo bỉ?” Đại chúng văn thuyết, liễu nhiên kiến tánh, tất giai lễ bái, câu thán thiện tai. Xướng ngôn: “phổ nguyện pháp giới chúng sanh, văn giả nhứt thời ngộ giải.” sư ngôn: “Thiện tri thức! nhược dục tu hành, tại gia diệc đắc, bất do tại tự. Tại gia năng hành, như đông phương nhơn tâm thiện; tại tự bất tu, như tây phương nhơn tâm ác. Đản tâm thanh tịnh, tức thị tự tánh tây phương.”
Ngay trên mãnh đất tự tâm, cái giác tánh, tức Phật Như Lai phóng đại quang minh, bên ngoài chiếu ra sáu cửa thanh tịnh, có thể phá được sáu cõi trời Dục giới, tự tánh chiếu bên trong, thì ba độc dứt trừ, các tội báo địa ngục đồng thời tiêu diệt. Trong ngoài sáng suốt thì có khác gì cõi Tây phương? Không tu như thế, thì làm sao đến cõi ấy?
Đại chúng nghe nói, đều thấy rõ tự tánh, đồng đảnh lễ tán thán, nguyện khắp pháp giới chúng sanh nghe đó đều được giải ngộ
Sư dạy:Thiện tri thức! Nếu tu hạnh này thì tại gia vẫn tu được, không cần ở chùa. Tại gia làm được vậy thì như người phương Đông mà tâm lành, ở chùa mà không tu thì như phương tây mà làm ác. Chỉ cần tâm thanh tịnh thì tự tánh là Tây phương.
韋 公 又 問:「在 家 如 何 修 行?願 為 教 授。」師 言:「吾 與 大 眾 說 無 相 頌。但 依 此 修,常 與 吾 同 處 無 別;若 不 依 此 修,剃 髮 出 家 於 道 何 益?頌 曰:
Vi công hựu vấn: “ tại gia như hà tu hành? Nguyện vi giáo thọ.” Sư ngôn: “ ngô dữ đại chúng thuyết vô tướng tụng. đản y thử tu, thường dữ ngô đồng xứ vô biệt; nhược bất y thử tu, thế phát xuất gia ư đạo hà ích? Tụng viết:
Vị thứ sử hỏi:Tại gia làm sao tu hành, xin Đại sư chỉ dạy.
Sư nói: Tôi nay nói bài tụng Vô tướng cho đại chúng. Chỉ cần y theo đó mà tu, thì không khác gì cùng ở một chỗ với tôi. Nếu không tu theo đó, thì có cạo tóc xuất gia cũng không ích gì cho đạo. Tụng rằng:

「心 平 何 勞 持 戒,  
行 直 何 用 修 禪!
恩 則 孝 養 父 母,
義 則 上 下 相 憐,
讓 則 尊 卑 和 睦,
忍 則 眾 惡 無 諠,
若 能 鑽 木 出 火,
淤 泥 定 生 紅 蓮。
苦 口 的 是 良 藥,
逆 耳 必 是 忠 言,
改 過 必 生 智 慧,
護 短 心 內 非 賢。
日 用 常 行 饒 益,
成 道 非 由 施 錢,
菩 提 只 向 心 覓,
何 勞 向 外 求 玄。
說 依 此 修 行,
西 方 只 在 目 前。」
Tam bình hà lao trì giới
Hành trực hà dụng tu thiền
Ân tắc hiếu dưỡng phụ mẫu,
Nghĩa tắc thượng hạ tương lân,
Nhượng tắc tôn ty hòa mục
Nhẫn tắc chúng ác vô tuyên
Nhược năng toản mộc xuất hỏa,
ứ nên định sanh hồng liên
Khổ khẩu đích thị lương dược
Nghịch nhĩ tất thị trung ngôn,
Cải quá tất sanh trí huệ,
Hộ đoản tâm nội phi hiền.
Nhựt dụng thường hành nhiêu ích
Thành đạo phi do thí tiền,
Bồ đề chỉ hướng tâm mích,
Hà lao hướng ngoại cầu huyền.
Thính thuyết y thử tu hanh,
Tây phương chỉ tại mục tiền.
Tâm bình chính là giữ giới
Hạnh thẳng đâu cần tu thiền
Ơn thì phụng dưỡng cha mẹ
Nghĩa thì trên dưới thương nhau
phải biết  tôn ti hòa mục
Nhẫn thì mọi lỗi không còn
Nếu cưa được cây lấy lửa
Bùn đọng quyết mọc sen hồng
Thuốc đắng miệng là thuốc tốt
Trái tai tức là lời ngay
Sữa lỗi liền sanh trí tuệ
Ôm lầm tâm chẳng phải hiền
Hằng ngày thường làm việc ích
Hành đạo không do xuất tiền
Bồ đề ngay nơi tâm kiếm
Ích chi hướng ngoại tìm cầu
Nghe giáo nương theo tu hành
Thiên đường ở ngay trước mắt
.
師 復 曰 :「善 知 識!總 須 依 偈 修 行,見 取 自 性,直 成 佛 道。時 不 相 待,眾 人 且 散,吾 歸 曹 溪。眾 若 有 疑,卻 來 相 問。」時,刺 史 官 僚、在 會 善 男 信 女,各 得 開 悟,信 受 奉 行。
Sư phục viết: “thiện tri thức! tổng tu y kệ tu hành, kiến thủ tự tánh, trực thành Phật đạo. Thời bất tương đãi, chúng nhơn thả tán, ngô quy tào khê. Chúng nhược hữu nghi, khước lai tương vấn.” thời, Thứ Sử quan liêu, tại hội thiện nam tín nữ, các đắc khai ngộ, tín thọ phụng hành.
            Sư lại dạy: Thiện tri thức! Hãy nương theo đó tu hành mà thấy tánh thành Phật. Pháp không thể đợi, các ngươi nên giải tán. Tôi nay về Tào Khê. Có ai nghi điều gì thì cứ đến hỏi.
 Vi thứ sử, quan liêu trong hội cùng thiện nam tín nữ đều được khai ngộ, tín thọ phụng hành.

Thứ Sáu, 22 tháng 11, 2013

PHÁP BẢO ĐÀN KINH PHẨM THỨ 2 BÁT NHÃ



般 若 第 二
次 日,韋 使 君 請 益。師 陞 座,告 大 眾 曰:「總 淨 心 念 摩 訶 般 若 波 羅 蜜 多。」復 云:「善 知 識!菩 提 般 若 之 智,世 人 本 自 有 之;只 緣 心 迷,不 能 自 悟,須 假 大 善 知 識,示 導 見 性。當 知 愚 人 智 人,佛 性 本 無 差 別,只 緣 迷 悟 不 同,所 以 有 愚 有 智。吾 今 為 說 摩 訶 般 若 波 羅 蜜 法,使 汝 等 各 得 智 慧。志 心 諦 聽!吾 為 汝 說。
Bát nhã đệ nhị
Thứ nhật, Vi Sử Quân thỉnh ích. Sư thăng tòa, cáo đại chúng viết: “tổng tịnh tâm niệm Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.”Phục vân: “thiện tri thức! Bồ Đề Bát Nhã chi trí, thế nhơn bổn tự hữu chi; chỉ duyên tâm mê, bất năng tự ngộ, tu giả đại thiện tri thức, thị đạo kiến tánh. Đương tri ngu nhơn trí nhơn, Phật tánh bổn vô sai biệt, chỉ duyên mê ngộ bất đồng, sở dĩ hữu ngu hữu trí. Ngô kim vi thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật pháp, sử nhữ đẳng các đắc trí huệ. Chí tâm đế thính! Ngô vị nhữ thuyết.
Chương 2: Bát Nhã
        Ngày kế, Vi Thứ Sử lại thỉnh Tổ thăng tòa thuyết pháp. Lục Tổ vì tứ chúng mà thăng tòa, bảo đại chúng rằng: “chư vị hãy tịnh tâm niệm Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.” Lại nói: “này Thiện tri thức! Trí Bồ Đề Bát Nhã, người đời ai ai cũng vốn tự có nhưng chỉ do duyên tâm mê mờ nên không tự nhận biết được; nên cần nhờ bậc Thiện tri thức chỉ dẫn mới thấy được tánh. Phải biết rằng, dầu kẻ ngu hay người trí thì Phật tánh cũng giống nhau không khác. Nhưng chỉ do tâm mê ngộ không đồng cho nên mới có kẻ ngu người trí. Lý do đó, nên nay Ta nói pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa để giúp cho các ông đều đắc trí tuệ. Hãy lặng lòng lắng nghe, Ta sẽ vì các ông mà thuyết.
善 知 識!世 人 終 日 口 念 般 若,不 識 自 性 般 若,猶 如 說 食 不 飽。口 但 說 空,萬 劫 不 得 見 性,終 無 有 益。善 知 識!摩 訶 般 若 波 羅 蜜 是 梵 語,此 言 大 智 慧 到 彼 岸。此 須 心 行,不 在 口 念。口 念 心 不 行,如 幻、如 化、如 露、如 電;口 念 心 行,則 心 口 相 應,本 性 是 佛,離 性 無 別 佛。
Thiện tri thức! thế nhơn chung nhật khẩu niệm Bát Nhã, bất thức tự tánh Bát NHã, du như thuyết thực bất bão. Khẩu đản thuyết không, vạn kiếp bất đắc kiên tánh, chung vô hữu ích. Thiện tri thức! Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật thị phạm ngữ, thử ngôn đại trí tuệ đáo bỉ ngạn. Thử tu tâm hành, bất tại khẩu niệm. Khẩu niệm tâm bất hành, như huyễn, như hóa, như lộ, như điện; khẩu niệm tâm hành, tắc tâm khẩu tương ưng, bổn tánh thị Phật, ly tánh vô biệt Phật.
        Này Thiện tri thức! Người đời suốt ngày miệng niệm Bát Nhã mà không biết tự tánh Bát Nhã, cũng giống như miệng nói ăn uống mà không chịu ăn thì làm sao no bụng được. Miệng chỉ nói suông tánh không mà tâm không làm theo thì vạn kiếp cũng không thấy tánh, trọn không ích lợi gì.
        Nầy Thiện tri thức! Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật là tiếng Phạm, xứ này gọi là đại trí tuệ đến bờ bên kia, chỉ cần tâm hành không cần miệng nói. Miệng niệm mà tâm không hành thì giống như huyễn, như hóa, như hạt sương, như điện chớp; miệng niệm tâm hành thì tâm khẩu tương ưng, bổn tánh là Phật, lìa tánh không có Phật.
何 名 摩 訶?摩 訶 是 大。心 量 廣 大,猶 如 虛 空,無 有 邊 畔,亦 無 方 圓 大 小,亦 非 青 黃 赤 白,亦 無 上 下 長 短,亦 無 瞋 無 喜,無 是 無 非,無 善 無 惡,無 有 頭 尾。諸 佛 剎 土,盡 同 虛 空。世 人 妙 性 本 空,無 有 一 法 可 得。自 性 真 空,亦 復 如 是。
Hà danh Ma Ha? Ma ha thị đại. Tâm lượng quảng đại, du như hư không, vô hữu biên bạn, diệc vô phương viên đại tiểu, diệc phi thanh hoàng xích bạch, diệc vô thượng hạ trường đoản, diệc vô sân vô hỷ, vô thị vô phi, vô thiện vô ác, vô hữu đầu vỹ. Chư Phật sát độ, tận đồng hư không. Thế nhơn diệu tánh bổn không, vô hữu nhứt pháp khả đắc. Tự tánh chơn không, diệc phục như thị.
Sao gọi là Ma Ha? Ma ha gọi là đại. tâm lượng rộng lớn, giống như hư không, không có bờ mé, cũng không vuông, không tròn, không lớn không nhỏ, cũng chẳng phải xanh, vàng, đỏ trắng; cũng không trên dưới, không dưới, không dài không ngắn, cũng không giận dữ, cũng không vui mừng, không đúng không sai, không thiện không ác, không có đầu, không có đuôi. 10 phương chư Phật hết thảy đều vắng lặng trống không như hư không. Cái diệu tánh của người đời vốn trống không, chẳng có một pháp nào trong đó mà tìm được. Cái tự tánh chơn không cũng lại như vậy.
善 知 識!莫 聞 吾 說 空,便 即 著 空。第 一 莫 著 空,若 空 心 靜 坐,即 著 無 記 空。善 知 識!世 界 虛 空,能 含 萬 物 色 像,日 月 星 宿,山 河 大 地,泉 源 谿 澗,草 木 叢 林,惡 人 善 人,惡 法 善 法,天 堂 地 獄,一 切 大 海,須 彌 諸 山,總 在 空 中。世 人 性 空,亦 復 如 是。
Thiện tri thức! Mạc văn ngô thuyết không, tiện tức trước không. Đệ nhứt mạc trước không, nhược không tâm tịnh tọa, tức trước vô ký không. Thiện tri thức! thế giới hư không, năng hàm vạn vật sắc tượng, nhựt nguyệt tinh tú, sơn hà đại địa, tuyền nguyên khê giản, thảo mộc tùng lâm, ác nhơn thiện nhơn, ác pháp thiện pháp, thiên đường địa ngục, nhứt thiết đại hải, tu di chi sơn, tổng tại không trung. Thế nhơn tánh không, diệc phục như thị.
Thiện tri thức, chớ nghe Ta nói không liền chấp Không.Trước nhất chớ chấp Không, nếu để tâm trống không mà ngồi lặng yên, tức là chấp Không vô ký. Thiện tri thức, hư không thế giới, bao hàm cả sắc tướng vạn vật, trời trăng mây gió, trăng sao tinh tú; sông núi ao hồ, cỏ cây lùm rừng, đất đai biển cả; kẻ ác người hiền, pháp thiện pháp ác, thiên đường địa ngục, cả thảy biển lớn, các núi Tu Di, tóm lại tất cả đều nằm trong hư không. Tánh không của thế gian cũng giống như hư không vậy
善 知 識!自 性 能 含 萬 法 是 大,萬 法 在 諸 人 性 中。若 見 一 切 人、惡 之 與 善,盡 皆 不 取 不 捨 亦 不 染 著,心 如 虛 空,名 之 為 大,故 曰 摩 訶。
Thiện tri thức! tự tánh năng hàm vạn pháp thị đại, vạn pháp tại chư nhơn tánh trung. Nhược kiến nhứt thiết nhơn, ác chi dữ thiện, tận giai bất thủ bất xả diệc bất nhiễm trước, tâm như hư không, danh chi vi đại, cố viết Ma Ha.
Thiện tri thức! Tự tánh của mình bao hàm hết thảy muôn pháp nên gọi là Lớn. Muôn pháp đều ở trong tự tánh của chúng sanh. Nếu thấy các điều lành điều ác của người, tất cả đều lấy, hay bỏ, cũng không chấp trước các điều đó, tâm đồng với hư không cho nên gọi là Đại; cũng còn gọi là Ma Ha.
善 知 識!迷 人 口 說,智 者 心 行。又 有 迷 人,空 心 靜 坐,百 無 所 思,自 稱 為 大。此 一 輩 人,不 可 與 語,為 邪 見 故。善 知 識!心 量 廣 大,遍 周 法 界,用 即 了 了 分 明,應 用 便 知 一 切。一 切 即 一,一 即 一 切。去 來 自 由,心 體 無 滯,即 是 般 若。
Thiện tri thức! mê nhơn khẩu thuyết, trí giả tâm hành. Hựu hữu mê nhơn, không tâm tịnh tọa, bá vô sở tư, tự xưng vi đại. Thử nhứt bối nhơn, bất khả dữ ngữ, vi tà kiến cố. Thiện tri thức! tâm lượng quảng đại, biến châu pháp giới, dụng tức liễu liễu phân minh, ứng dụng tiện tri nhứt thiết. Nhứt thiết tức nhứt, nhứt tức nhứt thiết. Khứ lai tự do, tâm thể vô trệ, tức thị Bát Nhã.
Thiện tri thức! Người mê thì dùng miệng nói, kẻ trí thì lấy tâm làm. Lại có người mê thì để tâm không mà tịnh tọa, trăm điều chẳng nghĩ, tự xưng cho đó là Đại, thật là lầm to; hạng người mê này, hạng hết thuốc chữa không thể nói gì cho được, vì họ chấp trước rơi vào tà kiến.
Thiện tri thức! Tâm lượng rộng lớn, châu biến pháp giới, dụng thì rõ ràng phân minh, ứng dụng liền biết tất cả. Tất cả là một, một là tất cả. Khứ lai tự tại, tâm thể không bị ngăn ngại tức là Bát Nhã.
善 知 識!一 切 般 若 智,皆 從 自 性 而 生,不 從 外 入。莫 錯 用 意,名 為 真 性 自 用,一 真 一 切 真。心 量 大 事,不 行 小 道。口 莫 終 日 說 空,心 中 不 修 此 行,恰 似 凡 人 自 稱 國 王,終 不 可 得,非 吾 弟 子。
Thiện tri thức! nhứt thiết bát nhã trí, giai tùng tự tánh nhi sanh, bất tùng ngoại nhập. Mạc thố dụng ý, danh vi chơn tánh tự dụng, nhứt chơn nhứt thiết chơn. Tâm lượng đại sự, bất hành tiểu đạo. Khẩu chung nhựt thuyết không, tâm trung bất tu thử hành, kháp tợ phàm nhơn tự xưng quốc vương, chung bất khả đắc, phi ngô đệ tử.
Thiện tri thức! Tất cả trí Bát Nhã đều từ tự tánh sanh, không từ bên ngoài vào. Dụng ý chớ lầm nên gọi là chân tánh tự dụng. Một chơn thì tất cả cũng chơn. Tâm lượng rộng lớn, không đi theo đường nhỏ. Miệng suốt ngày cứ nói không mà trong tâm không thực hành quán chiếu để thấy tánh không, giống như thường dân suốt ngày tự xưng mình là Quốc Vương thì kết quả có nói cả ngàn năm cũng không thành quốc vương được. Những hạng người này không xứng đáng là đệ tử của Ta.
「善 知 識!何 名 般 若?般 若 者,唐 言 智 慧 也。一 切 處 所,一 切 時 中,念 念 不 愚,常 行 智 慧,即 是 般 若 行。一 念 愚 即 般 若 絕,一 念 智 即 般 若 生。世 人 愚 迷,不 見 般 若,口 說 般 若,心 中 常 愚。常 自 言:『我 修 般 若。』念 念 說 空,不 識 真 空。般 若 無 形 相,智 慧 心 即 是。若 作 如 是 解,即 名 般 若 智。
Thiện tri thức! hà danh bát nhã? Bát nhã giả, đường ngôn trí huệ dã. Nhứt thiết xứ sở, nhứt thiết thời trung, niệm niệm bất ngu, thường hành trí huệ, tức thị bát nhã hạnh. Nhứt niệm ngu tứ bát nhã tuyệt, nhứt niệm trí tức bát nhã sanh. Thế nhơn ngu mê, bất kiến bát nhã, khẩu thuyết bát nhã, tâm trung thường ngu. Thường tự ngôn: “ngã tu bát nhã.” Niệm niệm thuyết không, bất thức chơn không. Bát nhã vô hình tướng, trí tuệ tâm tức thị. Nhược tác như thị giải, tức danh bát nhã trí.
        Thiện tri thức! Sao gọi là Bát Nhã? Bát Nhã nhà Đường của chúng ta dịch là Trí Tuệ. Tất cả mọi nơi, mọi lúc, trong mỗi niệm không ngu mà thường thực hành trí huệ tức là Bát Nhã hạnh. Nhứt niệm mà ngu thì Bát Nhã vắng mặt, nhứt niệm mà trí tức Bát Nhã sanh. Người đời ngu muội không thấy được Bát Nhã, miệng thì hay nói Bát Nhã mà trong tâm ngu muội. Miệng mình thì luôn xưng: “ta hay tu Bát Nhã.” Mỗi niệm mỗi niệm miệng thì luôn nói không mà tâm thì không biết chơn không ra làm sao. Bát nhã thì không có hình tướng, tâm trí tuệ cũng lại như vậy, nếu hiểu được như vậy, tức gọi là bát nhã trí.
何 名 波 羅 蜜?此 是 西 國 語,唐 言 到 彼 岸,解 義 離 生 滅。著 境 生 滅 起,如 水 有 波 浪,即 名 為 此 岸;離 境 無 生 滅,如 水 常 通 流,即 名 為 彼 岸,故 號 波 羅 蜜。
Hà danh ba la mật? thử thị tây quốc ngữ, đường ngôn đáo bỉ ngạn, giải nghĩa ly sanh diệt. Trước cảnh sanh diệt khởi, như thủy hữu ba lãng, tức danh vi thử ngạn; ly cảnh vô sanh diệt, như thủy thường thông lưu, tức danh vi bỉ ngạn, cố hiệu ba la mật.
Sao gọi là Ba La Mật? danh từ này là nói theo tiếng Ấn Độ. Nhà Đường ta dịch là đáo bỉ ngạn, giải nghĩa là lìa sanh diệt. Chấp trước thì sanh diệt khởi như nước có sóng nổi lên, ở trong sanh diệt thì gọi là bờ bên này; lìa cảnh  thì không sanh diệt như nước thường chảy suốt không bị lực cản của dòng chảy, lìa cảnh như vậy gọi là bờ bên kia; cho nên gọi là Ba La Mật.
善 知 識!迷 人 口 念,當 念 之 時,有 妄 有 非。念 念 若 行,是 名 真 性。悟 此 法 者,是 般 若 法;修 此 行 者,是 般 若 行。不 修 即 凡;一 念 修 行,自 身 等 佛。
Thiện tri thức! mê nhơn khẩu niệm, đương niệm chi thời, hữu vọng hữu phi. Niệm niệm nhược hành, thị danh chơn tánh. Ngộ thử pháp giả, thị bát nhã pháp; tu thử hành giả, thị bát nhã hành. Bất tu tức phàm; nhứt niệm tu hành, tự thân đẳng Phật.
Thiện tri thức! Người mê mà khi nhớ nghĩ thì chính trong lúc đang nhớ nghĩ thì cái nhớ nghĩ đó cũng có vọng có sai. Nếu mỗi niệm mỗi niệm mà thực hành Bát Nhã thì gọi là niệm chơn tánh. Người ngộ được pháp chơn tánh thì gọi là Bát Nhã, hành giả mà tu pháp này thì gọi là hành hạnh Bát Nhã. Người không tu Bát Nhã gọi là phàm phu. Một niệm tu hành pháp bát nhã thì tự thân bằng với Phật.
善 知 識!凡 夫 即 佛,煩 惱 即 菩 提。前 念 迷 即 凡 夫,後 念 悟 即 佛。前 念 著 境 即 煩 惱,後 念 離 境 即 菩 提。
Thiện tri thức! phàm phu tức Phật, phiền não tức bồ đề. Tiền niệm mê tức phàm phu, hậu niệm ngộ tức Phật. Tiền niệm trước cảnh tức phiền não, hậu niệm ly cảnh tức bồ đề.
Thiện tri thức! phàm phu tu hành bát nhã tức là Phật, phiền não tức là Bồ Đề. Niệm trước mê gọi là phàm phu, niệm sau ngộ tức là Phật, niệm trước chấp vào cảnh tức là Phiền não. Niệm sau lìa cảnh tức là Bồ Đề.
「善 知 識!摩 訶 般 若 波 羅 蜜,最 尊 最 上 最 第 一,無 住 無 往 亦 無 來,三 世 諸 佛 從 中 出。當 用 大 智 慧,打 破 五 蘊 煩 惱 塵 勞。如 此 修 行,定 成 佛 道,變 三 毒 為 戒 定 慧。
Thiện tri thức! Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, tối tôn tối thượng tối đệ nhứt, vô trụ vô vãng diệc vô lai, tam thế chư Phật tùng trung xuất. Đương dụng đại trí huệ, đã phá ngũ uẩn phiền não trần lao. Như thử tu hành, định thành Phật đạo, biến tam độc vi giới định tuệ.
Thiện tri thức! Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, là tối tôn, là trên hết, là đệ nhứt, không đứng không đi cũng không lại, 3 đời chư Phật cũng từ trong Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật mà  xuất thế. Thiện tri thức các vị phải dùng đại trí huệ để dập tắc trần lao phiền não và ngũ uẩn. Nếu tu hành thường thực hành Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật thì nhất định sẽ thành Phật, biến tam độc tham sân si thành tam vô lậu học Giới- Định- Tuệ.
善 知 識!我 此 法 門,從 一 般 若 生 八 萬 四 千 智 慧。何 以 故?為 世 人 有 八 萬 四 千 塵 勞。若 無 塵 勞,智 慧 常 現,不 離 自 性。悟 此 法 者,即 是 無 念,無 憶 無 著,不 起 誑 妄。用 自 真 如 性,以 智 慧 觀 照,於 一 切 法 不 取 不 捨,即 是 見 性 成 佛 道。
Thiện tri thức! ngã thử pháp môn, tùng nhứt bát nhã sanh bát vạn tứ thiên trí huệ. Hà dĩ cố? vi thế nhơn hữu bát vạn tứ thiên trần lao. Nhược vô trần lao, trí huệ thường hiện, bất ly tự tánh. Ngộ thử pháp giả, tức thị vô niệm, vô ức vô trước, bất khởi cuồng vọng. Dụng tự chơn như tánh, dĩ trí huệ quán chiếu, ư nhứt thiết pháp bất thủ bất xả, tức thị kiến tánh thành Phật đạo.
         Thiện tri thức! bản thân của pháp môn này từ một Bát Nhã mà sanh ra 8 vạn 4 ngàn trí huệ. Vì cớ sao? Vì con người có 8 vạn 4 ngàn trần lao phiền não. Nếu không có trần lao phiền não thì trí huệ không hiển hiện, không lìa tự tánh. Hành giả ngộ được pháp môn bát nhã này tức là vô niệm, không ghi nhớ, không chấp trước, không khởi cuồng vọng; dùng trí huệ chơn như tự tánh của mình quán chiếu, hết thảy các pháp mà không lấy không bỏ, tức là kiến tánh thành Phật đạo.
善 知 識!若 欲 入 甚 深 法 界 及 般 若 三 昧 者,須 修 般 若 行,持 誦《金 剛 般 若 經》,即 得 見 性。當 知 此 經 功 德 無 量 無 邊,經 中 分 明 讚 歎,莫 能 具 說。此 法 門 是 最 上 乘,為 大 智人 說,為 上 根 人 說。小 根 小 智 人 聞,心 生 不 信。何 以 故?譬 如 大 龍 下 雨 於 閻 浮 提,城 邑 聚 落,悉 皆 漂 流 如 漂 棗 葉。若 雨 大 海,不 增 不 減。若 大 乘 人,若 最 上 乘 人,聞 說 《金 剛 經》,心 開 悟 解。
Thiện tri thức! Nhược dục nhập thậm thâm pháp giới cập bát nhã tam muội giả, tu tu bát nhã hành, trì tụng “kim cang bát nhã kinh”, tức đắc kiến tánh. Đương tri thử kinh công đức vô lượng vô biên, kinh trung phân minh tán thán, mạc năng cụ thuyết. Thử pháp môn thị tối thượng thừa, vi đại trí nhơn thuyết, vi thượng căn nhơn thuyết. Tiểu căn tiếu trí nhơn văn, tâm sanh bất tín. Hà dĩ cố? thí như đại long hạ vũ ư Diêm Phù Đề, thành ấp tụ lạc, tất giai phiêu lưu như phiêu táo diệp. Nhược vũ đại hải, bất tăng bất giảm. Nhược đại thừa nhơn, nhược tối thượng thừa nhơn, văn thuyết “kim cang kinh”, tâm khai ngộ giải.
Thiện tri thức! muốn đi vào pháp giới thâm sâu và Bát Nhã Tam Muội thì phải tu hạnh bát nhã. Trì tụng kinh Kim Cang thì sẽ thấy được tánh. Phải biết rằng cái công đức của kinh Kim Cang thì vô lượng vô biên mà trong kinh đã tán thán, nhiều không thể kể hết. Pháp môn này là Tối Thượng Thừa vì người đại trí mà thuyết, vì người thượng căn mà nói chứ không phải thuyết cho hàng tiểu căn tiểu trí. Cho nên hàng tiểu căn tiểu trí khi nghe kinh Kim Cang thì sanh tâm bất tín.
Vì cớ sao? Giống như một trận mưa lớn trên đại địa, thành ấp xóm làng tất cả đều bị nước cuốn trôi như cuốn trôi cỏ rát. Nếu  mưa lớn trên đại dương thì nước biển vẫn không tăng không giảm. Như người căn trí Đại thừa, căn trí tối thượng thừa khi nghe kinh Kim Cang thì tâm liền khai ngộ.
故 知 本 性 自 有 般 若 之 智,自 用 智 慧,常 觀 照 故,不 假 文 字。譬 如 雨 水,不 從 天 有,元 是 龍 能 興 致,令 一 切 眾 生、一 切 草 木、有 情 無 情,悉 皆 蒙 潤。百 川 眾 流,卻 入 大 海,合 為 一 體。眾 生 本 性 般 若 之 智,亦 復 如 是。善 知 識!小 根 之 人,聞 此 頓 教,猶 如 草 木 根 性 小 者,若 被 大 雨,悉 皆 自 倒,不 能 增 長。小 根 之 人,亦 復 如 是。
Cố tri bổn tánh tự hữu bát nhã chi trí, tự dụng trí huệ, thường quán chiếu cố, bất giả văn tự. Thí như vũ thủy, bất tùng thiên hữu, nguyên thị long năng hưng trí, linh nhứt thiết chúng sanh, nhứt thiết thảo mộc, hữu tình vô tình, tất giai mông nhuận. Bá xuyên chúng lưu, khước nhập đại hải, hợp vi nhứt thể. Chúng sanh bổ tánh bát nhã chi trí, diệc phục như thị. Thiện tri thức! tiểu căn chi nhơn, văn thử đốn giáo, du như thảo mộc căn tánh tiểu giả, nhược bị đại vũ tất giai tự đảo, bất năng tăng trưởng. Tiểu căn chi nhơn, diệc phục như thị.
        Cho nên biết tự tánh vốn có cái trí bát nhã, trí huệ tự tánh thường quán chiếu nên không nhờ văn tự. Giống như nước mưa chẳng phải do trời mưa mà do khí trời tạo nên, khiến cho tất cả chúng sanh, cây cối, hữu tình vô tình đều được thấm nhuần trận mưa đó. Trăm sông đều chảy về biển lớn hợp thành một thể nước biển. Cái trí tự tánh của tất cả chúng sanh cũng lại như vậy.
        Thiện tri thức! hàng tiểu căn khi nghe pháp đốn giáo này cũng như cây cỏ mà gặp mưa to tất cả đều bị gãy đổ không sanh trưởng được. Hạng người tiểu căn cũng lại như vậy.
元 有 般 若 之 智,與 大 智 人 更 無 差 別,因 何 聞 法 不 自 開 悟?緣 邪 見 障 重、煩 惱 根 深。猶 如 大 雲 覆 蓋 於 日,不 得 風 吹,日 光 不 現。般 若 之 智 亦 無 大 小,為 一 切 眾 生 自 心 迷 悟 不 同,迷 心 外 見,修 行 覓 佛;未 悟 自 性,即 是 小 根。
Nguyên hữu bát nhã chi trí, dữ đại trí nhơn cánh vô sai biệt, nhân hà văn pháp bất tự khai ngộ? duyên tà kiến chướng trọng, phiền não căn thâm. Du như đại vân phú cái ư nhật, bất đắc phong suy, nhật quang bất hiện. Bát nhã chi trí diệc vô đại tiểu, vi nhứt thiết chúng sanh tự tâm mê ngộ bất đồng, mê tâm ngoại kiến, tu hành mích Phật; vị ngộ tự tánh, tức thị tiểu căn.
Nguyên hàng tiểu căn cũng có trí bát nhã giống như người đại căn đại trí không khác. Nhưng tại sao khi họ nghe pháp không tự khai ngộ? Đó là do duyên nơi tà kiến quá nặng nề, phiền não quá sâu dày giống như mây đen che kín mặt trời; gió không thổi mây không bay, mặt trời không xuất hiện. Trí bát nhã thì không lớn không nhỏ, do tâm mê ngộ của tất cả chúng sanh không đồng, tâm mê nên tìm Phật bên ngoài tâm nên không thấy được tánh, tức là hàng tiểu căn.
若 開 悟 頓 教,不 能 外 修,但 於 自 心 常 起 正 見,煩 惱 塵 勞 常 不 能 染,即 是 見 性。善 知 識!內 外 不 住,去 來 自 由,能 除 執 心,通 達 無 礙。能 修 此 行,與 般 若 經 本 無 差 別。 「善 知 識!一 切 修 多 羅 及 諸 文 字,大 小 二 乘,十 二 部 經,皆 因 人 置。因 智 慧 性,方 能 建 立。若 無 世 人,一 切 萬 法 本 自 不 有,故 知 萬 法 本 自 人 興。一 切 經 書,因 人 說 有。緣 其 人 中 有 愚 有 智,愚 為 小 人,智 為 大 人。愚 者 問 於 智 人,智 者 與 愚 人 說 法。愚 人 忽 然 悟 解 心 開,即 與 智 人 無 別。
Nhược khai ngộ đốn giáo, bất năng ngoại tu, đản ư tự tâm thường khởi chánh kiến, phiền não trần lao thường bất năng nhiễm, tức thị kiến tánh. Thiện tri thức! nội ngoại bất trụ, khứ lai tự do, năng trừ chấp tâm, thông đạt vô ngại. Năng tu thử hành, dữ bát nhã kinh bổn vô sai biệt. Thiện tri thức! nhứt thiết tu đa la cập chư văn tự, đại tiểu nhị thừa, thập nhị bộ kinh, giai nhân nhơn trí. Nhân trí huệ tánh, phương năng kiến lập. Nhược vô thế nhơn, nhứt thiết vạn pháp bổn tự bất hữu, cố tri vạn pháp bổn tự nhơn hưng. Nhứt thiết kinh thư, nhân nhơn thuyết hữu. Duyên kỳ nhơn trung hữu ngu hữu trí, ngu vi tiểu nhơn, trí vi đại nhơn. Ngu giả vấn ư trí nhơn, trí giã dữ ngu nhơn thuyết pháp. Ngu nhơn hốt nhiên ngộ giải tâm khai, tức dữ trí nhơn vô biệt.
Như khai ngộ đốn giáo không chấp hình tướng bên ngoài chỉ ở tự tâm bên trong thường khởi chánh kiến, không bị nhiễm ô phiền não trần lao, đó tức là kiến tánh.
Thiện tri thức! trong ngoài không trụ, khứ lai tự do, nếu trừ được tâm chấp trước, thông đạt vô ngại. Nếu tu được hạnh này thì cùng với kinh Bát Nhã đâu có gì khác.
Thiện tri thức!  Tất cả kinh điển và văn tự, đại thừa tiểu thừa, nhị thừa, 12 bộ kinh đều do bậc trí nói ra. Nhân tánh trí huệ mới kiến lập các pháp. Nếu không có con người thì vạn pháp vốn chẳng tự có. Cho nên biết tất cả vạn pháp vốn do tâm người kiến tạo. Tất cả kinh sách do con người nói ra. Trong nhơn sanh thì có kẻ trí người ngu, ngu là tiểu nhơn trí là đại nhơn. Kẻ ngu hỏi pháp người trí, người trí thuyết pháp cho người ngu, người ngu nghe pháp đốn ngộ tự tâm thì chẳng khác với người trí.
善 知 識!不 悟 即 佛 是 眾 生,一 念 悟 時 眾 生 是 佛,故 知 萬 法 盡 在 自 心。何 不 從 自 心 中,頓 見 真 如 本 性?《菩 薩 戒 經》云:『我 本 元 自 性 清 淨,若 識 自 心 見 性,皆 成 佛 道。』《淨 名 經》云:『即 時 豁 然,還 得 本 心。』
Thiện tri thức! bất ngộ tức Phật thị chúng sanh, nhứt niệm ngộ thời chúng sanh thị Phật, cố tri vạn pháp tận tại tự tâm. Hà bất tùng tự tâm trung, đốn kiến chơn như bổn tánh? “Bồ đề giới kinh” vân: “ngã bổn nguyên tự tánh thanh tịnh, nhược thức tự tâm kiến tánh, giai thành Phật đạo.” “Tịnh Danh kinh” vân: “tức thời hoát nhiên, hoàn đắc bổn tâm.”
Thiện tri thức! khi chưa ngộ thì Phật tức là chúng sanh, một niệm mà ngộ thì chúng sanh là Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm. Sao không từ trong tự tâm đốn thấy chơn như bản tánh. Kinh Bồ Tát Giới nói [kinh Phạm Võng]: “bổn nguyên tự tánh của ta vốn thanh tịnh, nếu biết được tự tâm kiến tánh tức thành Phật đạo.” Kinh Tịnh Danh nói:[kinh Duy Ma Cật] “ngay lúc đó hoát nhiên đại ngộ, liền biết bổn tâm.”
善 知 識!我 於 忍 和 尚 處,一 聞 言 下 便 悟,頓 見 真 如 本 性。是 以 將 此 教 法 流 行,令 學 道 者 頓 悟 菩 提。各 自 觀 心,自 見 本 性。若 自 不 悟,須 覓 大 善 知 識、解 最 上 乘 法 者,直 示 正 路是 善 知 識 有 大 因 緣,所 謂 化 導 令 得 見 性。一 切 善 法,因 善 知 識 能 發 起 故。三 世 諸 佛、十 二 部 經,在 人 性 中 本 自 具 有。不 能 自 悟,須 求 善 知 識 指 示 方 見;若 自 悟 者,不 假 外 求。若 一 向 執 謂 須 他 善 知 識 方 得 解 脫 者,無 有 是 處。何 以 故?自 心 內 有 知 識 自 悟。若 起 邪 迷、妄 念 顛 倒,外 善 知 識 雖 有 教 授,救 不 可 得。
Thiện tri thức! ngã ư nhẫn hòa thượng xứ, nhứt văn ngôn hạ tiện ngộ, đốn kiến chơn như bổn tánh. Thị dĩ tương thử giáo pháp lưu hành, linh học đạo giả đốn ngộ bồ đề. Các tự quán tâm, tự kiến bổn tánh. Nhược tự bất ngộ, tu mích đại thiện tri thức, giải tối thượng thừa pháp giả, trực thị chánh lộ. Thị thiện tri thức hữu đại nhân duyên, sở vị hóa đạo linh đắc kiến tánh. Nhứt thiết thiện pháp, nhân thiện tri thức năng phát khởi cố. Tam thế chư Phật, thập nhị bộ kinh, tại nhơn tánh trung bổn tự cụ hữu. Bất năng tự ngộ, tu cầu thiện tri thức chỉ thị phương kiến; nhược tự ngộ giả, bất giả ngoại cầu. Nhược nhứt hướng chấp vị tu tha thiện tri thức phương đắc giải thoát giả, vô hữu thị xứ. Hà dĩ cố? tự tâm nội hữu tri thức tự ngộ. Nhược khởi tà mê, vọng niệm điên đảo, ngoai thiện tri thức tuy hữu giáo thọ, cứu bất khả đắc.
        Thiện tri thức! xưa ta ở nơi Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn vừa nghe câu nói liền ngộ, đốn thấy chơn như bản tánh, đem cái đốn thấy chơn như bản tánh mà hoằng truyền giáo pháp khiến cho người học đạo đốn ngộ bồ đề, mỗi người tự thấy tự tâm, tự thấy bản tánh của mình. Nếu không ngộ được tự tâm thì phải đi tìm người thiện trí thức đã khai ngộ pháp tối thượng thừa để họ chỉ ngay cho mình thấy được chánh pháp trung đạo.
        Vì vị thiện tri thức có nhân duyên rất lớn giáo hóa dẫn dắt làm cho người học đạo thấy được tánh. Tất cả các thiện pháp đều do thiện tri thức kiến lập mà có. 3 đời chư Phật 12 bộ kinh, ở trong tự tánh vốn có đầy đủ không thiếu. Vì tự chính mình chưa tự ngộ được tự tánh cho nên phải cần cầu thiện tri thức chỉ bày mới ngộ được; nếu người tự ngộ được tự tánh thì không cần đến người khác. Nếu cố chấp luôn luôn phải có thiện tri thức chỉ bày mới mong giải thoát thì không bao giờ được. Vì cớ sao? Vì trong tự tâm sẳn có tri thức tự ngộ. Nếu khởi tà kiến mê chấp vọng tưởng điên đảo, thì dẫu cho có gặp thiện tri thức dạy bảo cũng không thể cứu giúp được.

若 起 正 真 般 若 觀 照,一 剎 那 間,妄 念 俱 滅。若 識 自 性,一 悟 即 至 佛 地。善 知 識!智 慧 觀 照,內 外 明 徹,識 自 本 心。若 識 本 心,即 本 解 脫。若 得 解 脫,即 是 般 若 三 昧,即 是 無 念。
Nhược khởi chánh chơn bát nhã quán chiếu, nhứt sát na gian, vọng niệm câu diệt. Nhược thức tự tánh, nhựt ngộ tức Phật địa. Thiện tri thức! trí huệ quán chiếu, nội ngoại minh triệt, thức tự bổn tâm. Nhược thức bổn tâm, tức bổn giải thoát. Nhược đắc giải thoát, tức thị bát nhã tam muội, tức thị vô niệm.
Như khởi chánh nhơn quán chiếu bát nhã, chỉ trong tích tắc vọng tưởng đều diệt. Nếu nhận biết được tự tánh của mình thì chỉ một niệm ngộ tức là đồng lên cõi Phật.
Thiện tri thức! trí huệ quán chiếu, trong ngoài đều thấu triệt rõ ràng thì nhận biết được bổn tâm của mình. Nếu nhận biết được bổn tâm tức là giải thoát. Nếu được giải thoát tức là bát nhã tam muội, tức là vô niệm.
何 名 無 念?若 見 一 切 法,心 不 染 著,是 為 無 念。用 即 遍 一 切 處,亦 不 著 一 切 處。但 淨 本 心,使 六 識 出 六 門,於 六 塵 中 無 染 無 雜,來 去 自 由,通 用 無 滯,即 是 般 若 三 昧、自 在 解 脫,名 無 念 行。
Hà danh vô niệm? nhược kiến nhứt thiết pháp, tâm bất nhiễm trước, thị vi vô niệm. Dụng tức biến nhứt thiết xứ, diệc bất trước nhứt thiết xứ. Đản tịnh bổn tâm, sử lục thức xuất lục môn, ư lục trần trung vô nhiễm vô tạp, lai khứ tự do, thông dụng vô trệ, tức thị bát nhã tam muội, tự tại giải thoát, danh vô niệm hành.
Vì sao gọi là vô niệm? như thấy tất cả các pháp mà tâm không nhiễm ô chấp trước, tức là vô niệm, khi ứng dụng thì cùng khắp tất cả chỗ mà cũng không chấp trước các chỗ.  Giữ bổ tâm thanh tịnh, khiến 6 thức ra ngoài 6 cửa, đối với 6 trần  mà tâm không nhiễm không chấp trước, không lộn xộn, khứ lai tự tại, thông dụng không ngăn ngại, tức là bát nhã tam muội, tự tại giải thoát, gọi là hạnh vô niệm.
若 百 物 不 思,當 令 念 絕,即 是 法 縛,即 名 邊 見。善 知 識!悟 無 念 法 者,萬 法 盡 通;悟 無 念 法 者,見 諸 佛 境 界;悟 無 念 法 者,至 佛 地 位。 「善 知 識!後 代 得 吾 法 者,將 此 頓 教 法 門,於 同 見 同 行,發 願 受 持。如 事 佛 故,終 身 而 不 退 者,定 入 聖 位。然 須 傳 授 從 上 以 來 默 傳 分 付,不 得 匿 其 正 法。
Nhược bá vật bất tư, đương linh niệm tuyệt, tức thị pháp phược, tức danh biên kiến. Thiện tri thức! ngộ vô niệm pháp giả, vạn pháp tận thông; ngộ vô niệm pháp giả, kiến chư Phật cảnh giới; ngộ vô niệm pháp giả, chí Phật địa vị. Thiện tri thức! hậu đại đắc ngộ pháp giả, tương thử đốn giáo pháp môn, ư đồng kiến đồng hành, phát nguyện thọ trì. Như sự Phật cố, chung nhật nhi bất thối giả, định nhập thánh vị. Nhiên tu truyền thọ tùng thượng dĩ lai mặc truyền phân phó, bất đắc nặc kỳ chánh pháp.
Như đối với mọi vật tâm không nghĩ đến, khiến cho nhớ nghĩ dứt sạch, tức là pháp bị trói buộc hay còn gọi là biên kiến.
Thiện tri thức! Ngộ được pháp vô niệm thì thông suốt vạn pháp. Ngộ được pháp vô niệm thì thấy được cảnh giới của chư Phật. Ngộ được pháp vô niệm thì đến được địa vị của Phật.
Thiện tri thức! Đời sau người nào gặp được pháp môn đốn giáo của ta, đem pháp môn đốn giáo này truyền trao cho các người đồng kiến đồng hành, phát nguyện thọ trì thì cũng như thờ Phật, làm được như vậy trọn đời không thối chí thì chắc chắn vị đó vào được ngôi Thánh Vị. Nhưng cách truyền thọ thì phải theo ý chỉ của Tổ Sư từ xưa tới nay, mặc truyền phú chúc cho rõ ràng không được ém dấu cái chánh pháp của thánh nhân đời trước truyền lại.
若 不 同 見 同 行,在 別 法 中,不 得 傳 付。損 彼 前 人,究 竟 無 益。恐 愚 人 不 解,謗 此 法 門,百 劫 千 生,斷 佛 種 性。善 知 識!吾 有 一 無 相 頌,各 須 誦 取,在 家 出 家,但 依 此 修。若 不 自 修,惟 記 吾 言,亦 無 有 益。聽 吾 頌 曰:
Nhược bất đồng kiến đồng hành, tại biệt pháp trung, bất đắc truyền phó. Tổn bỉ tiền nhơn, cứu cánh vô ích. Khủng ngu nhơn bất giải, báng thử pháp môn, bá khiếp thiên sanh, đoạn Phật chủng tánh. Thiện tri thức! Ngộ hữu nhứt vô tướng tụng, các tu tụng thủ, tại gia xuất gia, đản y thử tu. Nhược bất tự tu, duy ký ngô ngôn, diệc vô hữu ích. Thính ngô tụng viết:
        Còn hạng người không đồng kiến đồng hành, hoặc tu trong các pháp môn khác thì không truyền thọ vì không lợi  cho người đó. Rốt cuộc không đem lại lợi ích cho cả hai. Sợ có người ngu không hiểu, rồi đem tâm hủy báng pháp môn đốn giáo này mà đoạn dứt hạt giống Phật tánh của họ trong trăm ngàn vạn kiếp.
        Thiện tri thức! Ta có một bài kệ tụng vô tướng, các ông cần phải tụng đọc, tại gia xuất gia y vào kệ này mà tu hành. Nếu tự mình không tu mà chỉ ghi nhớ lời của ta nói thì đâu có lợi ích gì. Hãy nghe ta tụng:
說 通 及 心 通,  如  日 處 虛 空,
唯 傳 見 性 法,  出 世 破 邪 宗。
法 即 無 頓 漸,  迷 悟 有遲 疾,
只 此 見 性 門,  愚 人 不可 悉。
說 即  雖 萬 般,  合 理 還 歸 一,
煩 惱 闇 宅 中,  常 須 生 慧 日。
邪 來 煩 惱 至,  正 來 煩 惱 除,
邪 正 俱 不 用,  清 淨 至 無 餘。
菩 提 本 自 性,  起 心 即 是 妄,
淨 心 在 妄 中,  但 正 無 三 障。
世 人 若 修 道,  一 切 盡 不 妨,
常 自 見 己 過,  與 道 即 相 當。
色 類 自 有 道,  各 不 相 妨 惱,
離 道 別 覓 道,  終 身 不 見 道。
波 波 度 一 生,  到 頭 還 自 懊,
欲 得 見 真 道,  行 正 即 是 道。
自 若 無 道 心,  闇 行 不 見 道,
若 真 修 道 人,  不 見 世 間 過。
若 見 他 人 非,  自 非 卻 是 左,
他 非 我 不 非,  我 非 自 有 過。
但 自 卻 非 心,  打 除 煩 惱 破,
憎 愛 不 關 心,  長 伸 兩 腳 臥。
欲 擬 化 他 人,  自 須 有 方 便,
勿 令 彼 有 疑,  即 是 自 性 現。
佛 法 在 世 間,  不 離 世 間 覺,
離 世 覓 菩 提,  恰 如 求 兔 角。
正 見 名 出 世,  邪 見 是 世 間,
邪 正 盡 打 卻,  菩 提 性 宛 然。
此 頌 是 頓 教,  亦 名 大 法 船,
迷 聞 經 累 劫,  悟 則 剎 那 間。」
師 復 曰:「今 於 大 梵 寺 說 此 頓 教,
普 願 法 界 眾 生,言 下 見 性 成 佛。」 時 韋 使 君 與 官 僚 道 俗,聞 師 所 說,無 不 省 悟。一 時 作 禮,皆 歎:「善 哉!何 期 嶺 南 有 佛 出 世!」
Thuyết thông cập tâm thông,      
Như nhật xử hư không,                
Duy truyền kiến tánh pháp,
Xuất thế phá tà tông.
Pháp tức vô đốn tiệm,
Mê ngộ hữu trì tật,
Chỉ thử kiến tánh môn,
Ngu nhân bất khả tất.
Thuyết tức tuy vạn ban,
Hợp lý hoàn qui nhất,
Phiền não ám trạch trung,
Thường tu sanh tuệ nhật.
Tà lai phiền não chí,
Chánh lai phiền não trừ,
Tà chánh câu bất dụng,
Thanh tịnh chí vô dư.
Bồ-đề bản Tự tánh,
Khởi tâm tức thị vọng,
Tịnh tâm tại vọng trung,
Đãn chánh vô tam chướng.
Thế nhân nhược tu đạo,
Nhất thiết tận bất phương,
Thường tự kiến kỷ quá,
Dữ đạo tức tương đương
Sắc loại tự hữu đạo,
Các bất tương phương não,
Ly đạo biệt mích đạo,
Chung thân bất kiến đạo.
Ba ba độ nhất sanh,
Đáo đầu hoàn tự áo,
Dục đắc kiến chân đạo,
Hạnh chánh tức thị đạo.
Tự nhược vô đạo tâm,
Ám hạnh bất kiến đạo,
Nhược chân tu đạo nhân,
Bất kiến thế gian quá.
Nhược kiến tha nhân phi,
Tự phi khước thị tả,
Tha phi ngã bất phi,
Ngã phi tự hữu quá.
Đãn tự khước phi tâm,
Đả trừ phiền não phá,
Tắng ái bất quan tâm,
Trường thân lưỡng cước ngọa.
Dục nghĩ hóa tha nhân,
Tự tu hữu phương tiện,
Vật linh bỉ hữu nghi,
Tức thị Tự tánh hiện.
Phật pháp tại thế gian,
Bất ly thế gian giác,
Ly thế mích Bồ-đề,
Kháp như cầu thố giác.
Chánh kiến danh xuất thế,
Tà kiến thị thế gian,
Tà chánh tận đả khước,
Bồ-đề tánh uyển nhiên.
Thử tụng thị đốn giáo,
Diệc danh đại pháp thuyền,
Mê văn kinh lụy kiếp,
Ngộ tắc sát-na gian.
Sư phục viết: kim ư Đại Phạm tự thuyết thử đốn giáo, phổ nguyện pháp giới chúng sanh, ngôn hạ kiến tánh thành Phật. Thời vi sử quân dữ quan liêu đạo tục, văn sư sở thuyết, vô bất tỉnh ngộ. Nhứt thời tác lễ, giai thán: thiện tai! Hà kỳ lảnh nam hữu Phật xuất thế.
Thuyết thông tâm cũng thông
Như mặt nhật trên không
Chỉ truyền pháp kiến tánh
Ra đời trừ tà tông
Pháp vốn chẳng đốn tiệm
Mê ngộ có lâu mau
Pháp môn kiến tánh này
Người ngu không thể biết
Nói pháp tuy ngàn lối
Chơn lý chỉ có một
Nhà phiền não tối đen
Cần mặt trời tuệ sáng
Lòng tà phiền não dậy
Tâm chánh trừ phiền não,
Chánh tà đều không dùng
Thanh tịnh chứng vô dư
Bồ đề là tự tánh
Móng tâm là vọng động
Tâm tịnh trong cái động
Tâm chánh không 3 chướng
Người đời nếu tu đạo
Muôn vật không tổn thương
Thường tự thấy lỗi mình
Là tương đương với đạo
Muôn loài tự có đạo
Chớ giết hại lẫn nhau
Lìa đạo mà tìm đạo
Cả đời không thấy đạo
Bôn ba qua một đời
Rốt cuộc phiền não còn
Muốn thấy được chơn đạo
Hạnh chánh tức là đạo
Đạo tâm nếu không có
Mờ ám  không thấy đạo
Chân tu tìm mối đạo
Không thấy lỗi thế gian.
Nếu thấy lỗi của người
Đừng để thành lỗi mình
Người lỗi ta không lỗi
Ta lỗi nếu có lỗi
Tâm chừa bỏ chê bai
Phiền não phá cho hết
Thương ghét không quan tâm
Duỗi thẳng chân mà nằm
Muốn hóa độ người khác
Phương tiện phải đầy đủ
Chớ khiến người nghi hoặc
Tự tánh họ mới hiện
Phật pháp tại thế gian
Không lìa thế gian giác
Bỏ đời tìm bồ đề
Như lông rùa sừng thỏ
Chánh kiến là xuất thế
Tà kiến là thế gian
Chánh tà đều phá sạch
Bồ đề hiển hiện liền
Tụng này là đốn giáo
Cũng gọi đại pháp thuyền
Mê nghe kinh lụy kiếp
Ngộ thấy tánh liền liền
Lục Tổ lại bảo: “nay tại chùa Đại Phạm, ta tự nói pháp đốn giáo, phổ nguyện pháp giới chúng sanh, vừa nghe pháp rồi kiến tánh thành Phật.
        Lúc ấy, Vi Thứ Sử cùng với các quan viên, tăng ni đạo tục, hết thảy nghe Lục Tổ thuyết pháp rồi, cả thảy đều giác ngộ. Đồng thời làm lễ và đều khen rằng: lành thay! Nào ngờ xứ Lảnh Nam có Phật ra đời.