Trang

Photobucket

Thứ Sáu, 25 tháng 10, 2013

chương thứ 1. Hành do kinh pháp bảo đàn



行 由 第 一 時,大 師 至 寶 林。韶 州 韋 刺 史 (名 璩) 與 官 僚 入 山 請 師,出 於 城 中 大 梵 寺 講 堂,為 眾 開 緣 說 法。師 陞 座 次,刺 史 官 僚 三 十 餘 人,儒 宗 學 士 三 十 餘 人,僧 尼 道 俗 一 千 餘 人,同 時 作 禮,願 聞 法 要。
Hành do đệ nhứt thời, đại sư chí Bảo Lâm. Thiều Châu Vi thứ Sử dữ quan liêu nhập sơn thỉnh Sư, xuất ư thành trung Đại Phạm tự giảng đường, vi chúng khai duyên thuyết pháp. Sư thăng tòa thứ, Thứ Sử quan liêu tam thập dư nhơn, nho tông học sĩ tam thập dư nhơn, tăng ni đạo tục nhứt thiên dư nhơn, đồng thời tác lễ, nguyện văn pháp yếu.
Chương thứ nhất Hành Do.
Khi  Đức Lục Tổ đến chùa Bửu Lâm, có viên quan Vi Thứ Sử tên Cự ở Thiều Châu, cùng các quan viên tùy tùng vào núi thỉnh Tổ. Cung nghinh Lục Tổ vào thành trụ tại giảng đường chùa Đại Phạm. Cuối xin đức Lục Tổ thương xót vì tứ chúng chúng con còn mê mờ trong chánh pháp mà khai duyên mở hội truyền ánh sáng nhiệm mầu giáo pháp của đức Như Lai. Đức Lục Tổ nhận lời thỉnh cầu của tứ chúng mà thăng tòa thuyết pháp. Lúc đó trong pháp hội đạo tràng có: Vi Thứ Sử cùng các quan viên tùy tùng trên ba mươi người, trí thức nho gia hơn ba mươi người; Tăng, ni, đạo, tục trên một ngàn người, đồng làm lễ dưới chân Lục Tổ, xin nghe  Phật pháp.
大 師 告 眾 曰:「善 知 識!菩 提 自 性,本 來 清 淨,但 用 此 心,直 了 成 佛。善 知 識!且 聽 惠 能 行 由,得 法 事 意。惠 能 嚴 父,本 貫 范 陽,左 降 流 于 嶺 南,作 新 州 百 姓。此 身 不 幸,父 又 早 亡。老 母 孤 遺,移 來 南 海,艱 辛 貧 乏,於 市 賣 柴。時,有 一 客 買 柴,使 令 送 至 客 店;客 收 去,惠 能 得 錢,卻 出 門 外,見 一 客 誦 經。惠 能 一 聞 經 語,心 即 開 悟,遂 問:『客 誦 何 經?』客 曰:『《金 剛 經》。』復 問:『從 何 所 來,持 此 經 典?』客 云:『我 從 蘄 州 黃 梅 縣 東 禪 寺 來。其 寺 是 五 祖 忍 大 師 在 彼 主 化,門 人 一 千 有 餘;我 到 彼 中 禮 拜,聽 受 此 經。大 師 常 勸 僧 俗,但 持 《金 剛 經》,即 自 見 性,直 了 成 佛。』惠 能 聞 說,宿 昔 有 緣,乃 蒙 一 客,取 銀 十 兩 與 惠 能,令 充 老 母 衣 糧,教 便 往 黃 梅 參 禮 五 祖。 
Đại sư cáo chúng viết: “Thiện tri thức! Bồ Đề tự tánh, bản lai thanh tịnh, đản dụng thử tâm, trực liễu thành Phật. Thiện tri thức! thả thính Huệ Năng hành do, đắc pháp sự ý. Huệ Năng nghiêm phụ, bổn quán phạm dương, tả gián lưu vu Lảnh Nam, tác Tân Châu bá tánh. Thử thân bất hạnh, phụ hựu tảo vong. Lão mẫu cô di, di lai Nam Hải, gian tân bần phạp, ư thị mãi sài. Thời, hữu nhứt khách mại sài, sứ lệnh tống chí khách điếm; khách thâu khứ, Huệ Năng đắc tiền, khước xuất môn ngoại, kiến nhứt khách tụng kinh. Huệ Năng nhứt văn kinh ngữ, tâm tức khai ngộ, toại vấn: “khách tụng hà kinh”. Khách viết: “kim cang kinh”.phục vấn: “tùng hà sở lai, trì thử kinh điển?” khách vân: “ngã tùng Kỳ Châu Hoàng Mai huyện Đông Thiền tự lai. Kỳ tự thị Ngũ Tổ Nhẫn đại sư tại bỉ chủ hóa. Môn nhơn nhứt thiên hữu dư; ngã đáo bỉ trung lễ bái, thính thọ thử kinh. Đại sư thường khuyên tăng tục, đản trì “kim cang kinh”tức tự kiến tánh, trực liễu thành Phật.” Huệ Năng văn thuyết, túc tích hữu duyên, nãi mông nhứt khách, thủ ngân thập lượng dữ Huệ Năng, linh sung lão mẫu y lương, giáo tiện vãng hoàng mai tham lễ Ngũ Tổ.
Đại Sư bảo chúng rằng:“Tánh Bồ Đề của mình xưa nay vốn trong sạch vắng lặng. Nếu ai thấy được cái tâm mình thanh tịnh vắng lặng, thì chắc chắn thành Phật.” Chư Thiện tri thức, xin chư vị lắng nghe nguyên do và hành trạng việc đắc pháp của Huệ Năng.  Nghiêm phụ của Huệ Năng vốn là người ở xứ Phạm Duơng, làm quan bị giáng chức đày về Lãnh Nam làm thường dân tại huyện Tân Châu. Thân này bất hạnh, cha lại mất sớm, còn mẹ già quả phụ, mẹ cút con côi, phải đưa nhau qua quận Nam Hải sinh sống qua ngày.  Nhà nghèo, thiếu trước hụt sau, cay đắng trăm bề, đến nổi Năng này phải đốn củi đem ra chợ bán.  Lúc ấy, có một người khách mua củi bảo Huệ Năng mang đến tiệm.  Khách nhận củi xong, Huệ Năng này lãnh tiền rồi, bước ra ngoài cửa, thấy một người khách tụng kinh.  Huệ Năng vừa nghe qua lời kinh, tâm liền tỏ ngộ thiền cơ, mới hỏi khách tụng kinh gì? Khách đáp:“Kinh Kim Cang”. Huệ Năng lại hỏi: “Ở đâu đến mà trì tụng kinh ấy?” Khách nói rằng: “Tôi ở chùa Đông Thiền, huyện Huỳnh Mai, xứ Kỳ Châu lại đây.  Chùa ấy do Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Đại Sư chủ trì giáo hóa. Môn nhơn của Ngài tại đó có trên một ngàn người.  Tôi đến chùa lễ bái, nghe giảng, và lãnh kinh ấy. Đại Sư thường khuyên các vị kẻ tăng, người tục; nếu ai trì tụng kinh Kim Cang, thì liền thấy tánh và chắc chắn thành Phật.
Huệ Năng này nghe nói, bởi có nhơn duyên kiếp trước nên nhờ một người khách giúp Huệ Năng mười lạng bạc, bổ sung vào việc y thực cho mẹ già, và dạy qua huyện Huỳnh Mai mà tham lễ Ngũ Tổ. 
「惠 能 安 置 母 畢,即 便 辭 違。不 經 三 十 餘 日,便 至 黃 梅,禮 拜 五 祖。祖 問 曰:『汝 何 方 人?欲 求 何 物?』惠 能 對 曰:『弟 子 是 嶺 南 新 州 百 姓,遠 來 禮 師,惟 求 作 佛,不 求 餘 物。』祖 言:『汝 是 嶺 南 人,又 是 獦 獠,若 為 堪 作 佛?』惠 能 曰:『人 雖 有 南 北,佛 性 本 無 南 北;獦 獠 身 與 和 尚 不 同,佛 性 有 何 差 別?』五 祖 更 欲 與 語,且 見 徒 眾 總 在 左 右,乃 令 隨 眾 作 務。惠 能 曰:『惠 能 啟 和 尚,弟 子 自 心,常 生 智 慧,不 離 自 性,即 是 福 田。未 審 和 尚 教 作 何 務?』祖 云:『這 獦 獠 根 性 大 利!汝 更 勿 言,著 槽 廠 去。』惠 能 退 至 後 院,有 一 行 者,差 惠 能 破 柴 踏 碓。
Huệ Năng an trí mẫu tất, tức tiện từ vi. Bất kinh tam thập dư nhật, tiện chí Hoàng Mai, lễ bái Ngũ Tổ. Tổ vấn viết: “ nhữ hà phương nhơn? Dục cầu hà vật?” Huệ Năng đối viết: “đệ tử thị Lảnh Nam Tân Châu bá tánh, viễn lai lễ sư, duy cầu tác Phật, bất cầu dư vật.” Tổ ngôn: “nhữ thị Lảnh Nam nhơn, hựu thị cát lão, nhược vi kham tác Phật?” Huệ Năng viết: “nhơn tuy hữu nam bắc, Phật tánh bổn vô nam bắc; cát lão thân dữ hòa thượng bất đồng, Phật tánh hữu hà sai biệt?” Ngũ Tổ cánh dục dữ ngữ, thả kiến đồ chúng tổng tại tả hữu, nãi linh tùy chúng tác vụ. Huệ Năng viết: “Huệ Năng khải hòa thượng, đệ tử tự tâm, thường sanh trí huệ, bất ly tự tánh, tức thị phước điền, vị thẩm hòa thượng giáo tác hà vụ?” Tổ vân: “giá cát lão căn tánh đại lợi! nhữ cánh vật ngôn, trước tào xưởng khứ.”Huệ Năng thối chí hậu viện, hữu nhứt hành giả, sai Huệ Năng phá sài đạp đối.
Huệ Năng sắp đặt  nơi ăn chốn ở cho mẹ già  xong, liền từ giả ra đi, chưa đầy một tháng thì tới huyện Huỳnh Mai, vào đảnh lễ Ngũ Tổ. Tổ Sư hỏi: “Ông là người ở phương nào, muốn cầu việc chi?” Huệ Năng thưa:“Đệ tử là thường dân ở huyện Tân Châu, xứ Lãnh Nam, từ phương xa đến đây lạy Tổ, chỉ cầu làm Phật, chớ chẳng cầu chi khác.” Tổ Sư nói: “Ông là người xứ Lãnh Nam là giống man di, thế nào làm Phật được!” Huệ Năng lại thưa: “Con người tuy phân có Nam Bắc, chứ Phật Tánh không có Nam Bắc.  Cái thân man di này với thân Hòa Thượng tuy chẳng giống nhau chớ cái tánh Phật nào có khác!” Ngũ Tổ còn muốn lưu Huệ Năng lại nói chuyện nữa, nhưng thấy môn đồ đứng vây hai bên tả hữu rất đông, nên bảo Huệ Năng lui xuống theo chúng ra nhà sau mà làm công việc. Huệ Năng trình: “Kính bạch Hòa Thượng, tự tâm của đệ tử thường sanh trí huệ, chẳng lìa tự tánh, tức là phước điền, chẳng hay Hòa Thượng còn dạy làm công việc gì nữa?” Tổ Sư răn: “Cái căn tánh của lão man di này thiệt là lợi căn.  Ông chớ nói nữa, hãy đi ra nhà sau theo chúng mà làm việc” Huệ Năng ra đến nhà sau, có một người hành giả phân công Huệ Năng bửa củi, giã gạo.
經 八 月 餘,祖 一 日 忽 見 惠 能 曰:『吾 思 汝 之 見 可 用,恐 有 惡 人 害 汝,遂 不 與 汝 言。汝 知 之 否?』惠 能 曰:『弟 子 亦 知 師 意,不 敢 行 至 堂 前,令 人 不 覺。』
Kinh bát nguyệt dư, Tổ nhứt nhật hốt kiến Huệ Năng viết: “ngô tư nhữ chi kiến khả dụng, khủng hữu ác nhơn hại nhữ, toại bất dữ nhữ ngôn. Nhữ tri chi phủ.” Huệ Năng viết: “đệ tử diệc tri sư ý, bất cảm hành chí đường tiền, linh nhơn bất giác.”
Trải qua hơn tám tháng, một ngày kia Tổ Sư chợt thấy Huệ Năng, Ngài nói rằng:“ta biết kiến tánh của ông có thể dùng, xong sợ có kẻ ác hại ông. Nên không cho ông nói, ông có biết ý này chăng?” Huệ Năng thưa: “Đệ tử cũng hiểu ý Tổ Sư, nên chẳng dám đến nhà trên, để chúng không biết.” 
「祖 一 日 喚 諸 門 人 總 來:『吾 向 汝 說,世 人 生 死 事 大,汝 等 終 日 只 求 福 田,不 求 出 離 生 死 苦 海;自 性 若 迷,福 何 可 救? 汝 等 各 去,自 看 智 慧,取 自 本 心 般 若 之 性,各 作 一 偈,來 呈 吾 看。若 悟 大 意,付 汝 衣 法,為 第 六 代 祖。火 急 速 去,不 得 遲 滯,思 量 即 不 中 用;見 性 之 人,言 下 須 見。若 如 此 者,輪 刀 上 陣,亦 得 見 之。(喻 利 根者)
Tổ nhất nhựt hoán chư môn nhơn tổng lai: “Ngô hướng nhữ thuyết, thế nhơn sanh tử sự đại, nhữ đẳng chung nhật chỉ cầu phước điền, bất cầu xuất ly sanh tử khổ hải; tự tánh nhược mê, phước hà khả cứu? Nhữ đẳng các khứ, tự khan trí huệ, thủ tự bổn tâm bát nhã chi tánh, các tác nhứt kệ, lai trình ngô khan. Nhược ngộ đại ý, phó nhữ y pháp, vi đệ lục đại Tổ. Hỏa cấp tốc khứ, bất đắc trì trệ, tư lương tức bất trung dụng; kiến tánh chi nhơn, ngôn hạ tu kiến. Nhược như thử giả, đao luân thượng trận, diệc đắc kiến chi. (dụ lợi căn giả)
Một hôm, Ngũ Tổ bảo chúng đệ tử: “các ông theo Ta học pháp, Ta thường bảo với các ông, người đời sống chết là việc lớn, nhưng các ông trọn ngày chỉ lo cầu phước, không lo nghĩ gì đến việc tu hành để mong ra khỏi biển khổ sanh tử. Nếu tự tánh của mình mê mờ thì phước nào có thể cứu khổ sanh tử? Các ông, mỗi người hay đi tự xem lại trí huệ của mình, hãy nhận lấy bổn tâm Bát Nhã tự tánh của mình, mỗi người làm một bài kệ đem trình cho Ta xem. Nếu ai ngộ được đại ý thì Ta sẽ truyền Y Pháp cho vị đó làm Tổ đời thứ 6; hãy mau lên chẳng được chậm trễ, suy nghĩ tức là không trúng. Người thấy được tánh vừa nghe lời nói thì liền nhận thấy được tánh, nếu làm được như vậy thì dù có cầm gươm xông vào trận địa cũng thấy được tánh.(Dụ cho người căn tánh đại thừa)
眾 得 處 分,退 而 遞 相 謂 曰:『我 等 眾 人,不 須 澄 心 用 意 作 偈,將 呈 和 尚,有 何 所 益?神 秀 上 座,現 為 教 授 師,必 是 他 得。我 輩 謾 作 偈 頌,枉 用 心 力。』餘 人 聞 語,總 皆 息 心,咸 言:『我 等 已 後 依 止 秀 師,何 煩 作 偈?』
Chúng đắc xứ phân, thối nhi hổ tương vị viết: “ngã đẳng chúng nhơn, bất tu trừng tâm dụng ý tác kệ, tương trình hòa thượng, hữu hà sở ích? Thần Tú thượng tọa, hiện vi giáo thọ sư, tất thị tha đắc. Ngã bối mạn tác kệ tụng, uổng dụng tâm lực”. Dư nhơn văn ngữ, tổng giai tức tâm, giảm ngôn: “ngã đẳng dĩ hậu y chỉ Tú sư, hà phiền tác kệ?”.
        Chúng được chỉ dạy rồi, mọi người lui ra, trở về họp bàn với nhau: “mọi người chúng ta không cần phải lắng lòng dụng ý làm kệ để trình Hòa Thượng, đâu có ích gì? Thượng tọa Thần Tú, là bậc thiện tri thức hiện làm giáo thọ sư, ắt là người đắc pháp. Chúng ta có cố gắng làm kệ tụng thì phí tâm dụng sức. Mọi người nghe xong đều đồng ý cho là phải và đều nói: “mọi người chúng ta từ nay về sau cứ y chỉ vào Thượng Tọa Thần Tú mà tu, làm kệ chi cho nó mệt sức?”
神 秀 思 惟:『諸 人 不 呈 偈 者,為 我 與 他 為 教 授 師;我 須 作 偈,將 呈 和 尚,若 不 呈 偈,和 尚 如 何 知 我 心 中 見 解 深 淺?我 呈 偈 意,求 法 即 善,覓 祖 即 惡,卻 同 凡 心,奪 其 聖 位 奚 別?若 不 呈 偈,終 不 得 法。大 難!大 難!』
Thần Tú tư duy: “chư nhơn bất trình kệ giả, vi ngã dữ tha vi giáo thọ sư; ngã tu tác kệ, tương trình hòa thượng, nhược bất trình kệ, hòa thượng như hà tri ngã tâm trung kiến giải thâm thiển? Ngã trình kệ ý, cầu pháp tức thiện, mịch tổ tức ác, khước đồng phàm tâm, đoạt kỳ thánh vị hề biệt? nhược bất trình kệ, chung bất đắc pháp. Đại nan! Đại nan!”
Thần Tú suy nghĩ: “mọi người đều không làm kệ để trình Hòa Thượng xem, vì cho ta là giáo thọ sư của họ; ta cần phải làm kệ để trình Hòa Thượng, nếu không trình kệ thì Hòa Thượng đâu biết được kiến giải trong tâm ta cạn sâu? Ý ta trình kệ, cầu pháp thì tốt, cầu làm Tổ thì xấu, lại đồng với tâm phàm phu mà muốn cướp ngôi vị Thánh đâu có khác gì? Nếu không trình kệ, trọn không đắc pháp. Thật khó. Thật khó!
「五 祖 堂 前,有 步 廊 三 間,擬 請 供 奉 盧 珍,畫 楞 伽 經 變 相,及 五 祖 血 脈 圖,流 傳 供 養。神 秀 作 偈 成 已,數 度 欲 呈,行 至 堂 前,心 中 恍 惚,遍 身 汗 流,擬 呈 不 得;前 後 經 四 日,一 十 三 度 呈 偈 不 得。秀 乃 思 惟:『不 如 向 廊 下 書 著,從 他 和 尚 看 見,忽 若 道 好,即 出 禮 拜,云 是 秀 作;若 道 不 堪,枉 向 山 中 數 年,受 人 禮 拜,更 修 何 道?』是 夜 三 更,不 使 人 知,自 執 燈,書 偈 於 南 廊 壁 間,呈 心 所 見。
Ngũ tổ tiền đường, hữu bộ lang tam gian, nghĩ thỉnh Cung Phụng Lô Trân, họa Lăng Già Kinh Biến Tướng, cập ngũ Tổ Huyết Mạch Đồ, lưu truyền cúng dường. Thần Tú tác kệ thành dĩ, số độ dục trình, hành chí đường tiền, tâm trung hoảng hốt, biến thân hạn lưu, nghĩ trình bất đắc; tiền hậu kinh tứ nhật, nhứt thập tam độ trình kệ bất đắc. Tú nãi tư duy: “bất như hướng lang hạ thư trước, tùng tha hòa thượng khán kiến, hốt nhược đạo hảo, tức xuất lễ bái, vân thị Thần Tú tác; nhược đạo bất kham, uổng hướng sơn trung số niên, thọ nhơn lễ bái, cánh tu hà đạo.” Thị dạ tam canh, bất sử nhơn tri, tự chấp đăng, thư kệ ư nam lang bích gian, trình tâm sở kiến.
        Trước nhà Ngũ Tổ có một hành lang 3 gian, Ngũ Tổ nghĩ mời ông Cung Phụng Lô Trân đến vẽ bức tranh kinh Lăng Già Biến Tướng và bức Ngũ Tổ Huyết Mạch Đồ, để lưu truyền cúng dường.
        Thần Tú làm kệ rồi, mấy lần muốn trình, khi đi đến trước nhà của Tổ thì trong lòng hoảng hốt, từ đầu tới chân mồ hôi chảy như tắm, bao phen muốn trình kệ mà không dám. Trước sau trải qua 4 ngày, 13 lần muốn trình kệ mà không dám trình. Thần Tú mới suy nghĩ: “chi bằng ta nên viết bài kệ này lên vách hành lang trước nhà của Tổ, Hòa Thượng đi ngang qua xem thấy; nếu Hòa Thượng bảo bài kệ hợp với đạo thấy tánh thì mình ra lễ bái và thưa rằng chính bài kệ này là của Thần Tú làm, nếu Hòa Thượng bảo bài kệ chưa thấy tánh thì uổng phí công lao ở núi bao năm dày công tu học, nhận người lễ bái, lại tu đạo gì?”Canh 3 đêm ấy, không cho người biết, tự tay cầm đèn viết bài kệ lên vách phía Nam trước nhà của Tổ, trình chổ thấy tự tâm của mình.
偈 曰:
身 是 菩 提 樹,  
心 如 明 鏡 臺,
時 時 勤 拂 拭,
勿 使 惹 塵 埃。
秀 書 偈 了,便 卻 歸 房 ,人 總 不 知。秀 復 思  惟:『五 祖 明 日 見 偈 歡 喜,即 我 與 法 有 緣;若 言 不 堪,自 是 我 迷,宿 業 障 重,不 合 得 法。』聖 意 難 測,房 中 思 想,坐 臥 不  安,直 至 五 更。祖 已 知 神 秀 入 門 未 得,不 見 自 性。
Kệ viết:
Thân thị bồ đề thọ
Tâm như minh cảnh đài
Thời thời cần phất thức,
Vật sử nhạ trần ai.
Tú họa kệ liễu, tiện khước quy phòng, nhơn tổng bất tri. Tú phục tu duy: “Ngũ Tổ minh nhật kiến kệ hoan hỷ, tức ngã dữ pháp hữu duyên; nhược ngôn bất kham, tự thị ngã mê, túc nghiệp chướng trọng, bất hợp đắc pháp.” Thánh ý nan trắc, phòng trung tư tưởng, tọa kiến bất an, trực chí ngũ canh. Tổ dĩ tri Thần Tú nhập môn vị đắc, bất kiến tự tánh.
Kệ rằng:
Thân là cội bồ đề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn siêng lau chùi
Chớ để dính bụi trần.
Thần Tú viết xong bài kệ, liền bước nhanh về phòng, không một ai hay biết. Thần Tú suy nghĩ: “ngày mai Ngũ Tổ nhìn thấy bài kệ mà hoan hỷ, tức là ta cùng pháp có duyên, nếu Hòa Thượng bảo bài kệ không kham thì ta còn mê mờ trong diệu pháp, nghiệp duyên đời trước quá nhiều, không hợp được pháp.” Thật là Thánh ý khó lường, trong phòng suy nghĩ, ngồi nằm không yên cho đến canh 5. Tổ biết Thần Tú chưa vào được cửa, chưa thấy tự tánh.
「天 明,祖 喚 盧 供 奉 來,向 南 廊 壁 間,繪 畫 圖 相,忽 見 其 偈,報 言:『供 奉 卻 不 用 畫,勞 爾 遠 來。經 云:「凡 所 有 相,皆 是 虛 妄。」但 留 此 偈,與 人 誦 持。依 此 偈 修,免 墮 惡 道;依 此 偈 修,有 大 利 益。』令 門 人 炷 香 禮 敬,盡 誦 此 偈,即 得 見 性。門 人 誦 偈,皆 歎 善 哉。
 Thiên minh, Tổ hoán Lô Cung Phụng lai, hướng nam lang bích gian, hội họa đồ tướng, hốt kiến kỳ kệ, báo ngôn: “Cung Phụng khước bất dụng họa, lao nhĩ viễn ali. Kinh vân: “phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng.”Đản lưu thử kệ, dữ nhơn tụng trì. Y thử kệ tu, miễn đọa ác đạo; y thử kệ tu, hữu đại lợi ích.” Linh môn nhơn chú hương lễ kính, tận tụng thử kệ, tức đắc kiến tánh. Môn nhơn tụng kệ, giai than thiện tai.
        Sáng ngày, Tổ gọi họa sư Lô Cung Phụng đến hành lang phía Nam để vẽ bức tranh Lăng Già Kinh Biến Tướng và bức Ngũ Tổ Huyết Mạch Đồ, bổng Tổ nhìn thấy bài kệ liền nói với họa sư Lô Cung Phụng: thôi không cần vẽ nữa, phiền ông từ xa tới đây. Kinh nói: “phàm cái gì mà có hình tướng đều là không thật.”Nay chỉ lưu bài kệ này cho người trì tụng. Y vào kệ này mà tu thì khỏi rơi vào đường ác, y vào kệ này mà tu thì được lợi ích rất lớn. Bèn bảo mọi người đốt hương kính lễ, mọi người nên tụng kệ này sẽ thấy được tự tánh. Mọi người tụng kệ đều khen: lành thay!
「祖,三 更 喚 秀 入 堂,問 曰:『偈 是 汝 作 否?』秀 言:『實 是 秀 作,不 敢 妄 求 祖 位,望 和 尚 慈 悲,看 弟 子 有 少 智 慧 否?』祖 曰:『汝 作 此 偈,未 見 本 性,只 到 門 外,未 入 門 內。如 此 見 解,覓 無 上 菩 提,了 不 可 得;無 上 菩 提,須 得 言 下 識 自 本 心,見 自 本 性 不 生 不 滅;於 一 切 時 中,念 念 自 見 萬 法 無 滯,一 真 一 切 真,萬 境 自 如 如。如 如 之 心,即 是 真 實。若 如 是 見,即 是 無 上 菩 提 之 自 性 也。汝 且 去,一 兩 日 思 惟,更 作 一 偈,將 來 吾 看;汝 偈 若 入 得 門,付 汝 衣 法。』神 秀 作 禮 而 出。又 經 數 日,作 偈 不 成,心 中 恍 惚,神 思 不 安,猶 如 夢 中,行 坐 不 樂。
 Tổ, tam canh hoán Tú nhập đường, vấn viết: “kệ thị nhữ tác phủ?” Tú ngôn: “thật thị Tú tác, bất cảm vọng cầu Tổ vị, vọng hòa thượng từ bi, khan đệ tử hữu thiểu trí tuệ phủ?” Tổ viết: “nhữ tác thử kệ, vị kiến bản tánh, chỉ đáo môn ngoại, vị nhập môn nội. Như thử kiến giải, mịch vô thượng bồ đề, liễu bất khả đắc; vô thượng bồ đề, tu đắc ngôn hạ thức tự bổn tâm, kiến tự bổn tánh bất sanh bất diệt; ư nhứt thiết thời trung, niệm niệm tự kiến vạn pháp vô trệ, nhứt chơn nhứt thiết chơn, vạn cảnh tự như như. Như như chi tâm, tức thị chơn thật. Nhược như thị kiến, tức thị vô thượng bồ đề chi tự tánh dã. Nhữ thả khứ, nhứt lưỡng nhật tư duy, cánh tác nhứt kệ, tương lai trình khán; nhữ kệ nhược nhập đắc môn, phó nhữ y pháp.” Thần Tú tác lễ nhi xuất. Hựu kinh số nhật, tác kệ bất thành, tâm trung hoảng hốt, Thần tư bất an, du như mộng trung, hành tọa bất lạc.
Nữa đêm canh 3, Tổ gọi Thần Tú vào phòng hỏi: “bài kệ đó có phải ông làm không?”Thần Tú thưa: “thiệt chính của Thần Tú làm, không dám mong cầu Tổ Vị, xin hòa thượng từ bi, xem đệ tử có chút ít trí tuệ nào không?”
        Tổ bảo: “ông làm bài bài kệ này, chưa thấy được tánh, chỉ đến ngoài cửa, chưa vào bên trong cửa. Kiến giải như thế mà cầu Vô Thượng Bồ Đề, trọn không thể được; Vô Thượng Bồ Đề là phải ngay khi lời nói liền nhận thấy được bổn tâm thanh tịnh, tự thấy bản tánh vắng lặng không sanh không diệt, bất cứ giờ nào, niệm niệm lúc nào cũng thấy vạn pháp không kẹt. Thấy được một pháp chơn thì thấy được tất cả các pháp chơn, thấy vạn cảnh như như không lìa tự tánh, thấy tâm như như chính là thấy tâm chơn thật. Nếu thấy được như thế tức là thấy được tự tánh Vô Thượng Bồ Đề. Ông hãy lui ra, về suy nghĩ thêm một 2 ngày nữa, làm một bài kệ khác đem trình Ta xem, nếu bài kệ của ông được vào cửa, Ta sẽ truyền y pháp cho.”
        Thần Tú đảnh lễ lui ra, trãi qua mấy ngày sau làm kệ không thành, trong tâm  hoảng hốt, tinh thần rối ren, sống giống như trong mộng, đứng ngồi không vui.
「復 兩 日,有 一 童 子 於 碓 坊 過,唱 誦 其 偈;惠 能 一 聞,便 知 此 偈 未 見 本 性,雖 未 蒙 教 授,早 識 大 意。遂 問 童 子 曰:『誦 者 何 偈?』童 子 曰:『爾 這 獦 獠 不 知,大 師 言:「世 人 生 死 事 大,欲 得 傳 付 衣 法,令 門 人 作 偈 來 看。若 悟 大 意,即 付 衣 法 為 第 六 祖。」神 秀 上 座,於 南 廊 壁 上,書 無 相 偈,大 師 令 人 皆 誦,依 此 偈 修,免 墮 惡 道;依 此 偈 修,有 大 利 益。』
Phục lưỡng nhật, hữu nhứt đồng tử ư đối phường quá, xướng tụng kỳ kệ; Huệ Năng nhứt văn, tiện tri thử kệ vi kiến bản tánh, tuy vị mông giáo thọ, tảo thức đại ý. Toại vấn đồng tử viết: “tụng giả hà kệ?” Đồng tử viết: “nhĩ giá cát lão bất tri, Đại sư ngôn: “thế nhơn sanh tử sự đại, dục đắc truyền phó y pháp, linh môn nhơn tác kệ lai khan. Nhược ngộ đại ý, tức phó y pháp vi đệ lục tổ.” Thần Tú thượng tọa, ư nam lang bích thượng, họa vô tướng kệ, Đại sư linh nhơn giai tụng, y thử kệ tu, miễn đọa ác đạo; y thử kệ tu, hữu đại lợi ích.”
    Qua 2 ngày sau, có một Đồng Tử đi ngang qua phòng giã gạo, ngâm nga bài kệ kiến tánh của Thần Tú, Huệ Năng vừa nghe liền biết bài kệ này chưa thấy bản tánh, dù chưa được sự chỉ dạy của Ngũ Tổ nhưng sớm đã biết đại ý. Bèn hỏi Đồng Tử: “tụng kệ gì vậy?”Đồng Tử liền đáp: “cái lão man di chẳng biết gì hết, Đại Sư dạy: “người đời sống chết là việc lớn, muốn được truyền trao pháp y, bảo mọi người làm kệ kiến tánh đem đến trình Ngài xem; nếu ngộ được đại ý thì sẽ được truyền trao y pháp làm tổ đời thứ 6.” Thượng Tọa Thần Tú viết kệ Vô Tướng lên vách tường hành lang trước nhà của Ngũ Tổ. Đại sư bảo mọi người đều phải trì tụng, y vào kệ này mà tu thì khỏi rơi vào đường xấu, y vào kệ này mà tu thì có ích lợi rất lớn”.
惠 能 曰:『(一 本 有 我 亦 要 誦 此,結 來 生 緣)上 人!我 此 踏 碓,八 箇 餘 月,未 曾 行 到 堂 前。望 上 人 引 至 偈 前 禮 拜。』童 子 引 至 偈 前 禮 拜,惠 能 曰:『惠 能 不 識 字,請 上 人 為 讀。』時,有 江 州 別 駕,姓 張 名 日 用,便 高 聲 讀。惠 能 聞 已,遂 言:『亦 有 一 偈,望 別 駕 為 書。』別 駕 言:『汝 亦 作 偈?其 事 希 有。』惠 能 向 別 駕 言:『欲 學 無 上 菩 提,不 得 輕 於 初 學。下 下 人 有 上 上 智,上 上 人 有 沒 意 智。若 輕 人,即 有 無 量 無 邊 罪。』別 駕 言:『汝 但 誦 偈,吾 為 汝 書。汝 若 得 法,先 須 度 吾。勿 忘 此 言。』惠 能 偈 曰:
Huệ Năng viết: “(Nhứt bổn hữu ngã diệc yêu tụng thử, kết lai sanh duyên”) Thượng nhơn! Ngã thử đạp đối, bát cá dư nguyệt, vị tằng hành đáo đường tiền. Vọng thượng nhơn dẫn chí kệ tiền lễ bái.” Đồng tử dẫn chí kệ tiền lễ bái, Huệ Năng viết: “Huệ Năng bất thức tự, thỉnh thượng nhơn vi đọc.” thời, hữu Giang Châu Biệt Giá, tánh Trương danh Nhựt Dụng, tiện cao thinh đọc. Huệ Năng văn dĩ, toại ngôn: “diệc hữu nhứt kệ, vọng Biệt Giá vi họa.” Biệt Giá ngôn: “nhữ diệc tác kệ? kỳ sự hy hữu.” Huệ Năng hướng Biệt Giá ngôn: “dục học vô thượng bồ đề, bất đắc khinh ư sơ học. hạ hạ nhơn hữu thượng thượng trí, thượng thượng nhơn hữu một ý trí. Nhược khinh nhơn, tức hữu vô ượng vô biên tội.” Biêt giá ngôn: “nhữ đản tụng kệ, ngô vi nhữ họa. Nhữ nhược đắc pháp, tiên tu độ ngô. Vật vong thử ngôn,” Huệ Năng kệ viết:
Huệ Năng nói:chính tôi cũng muốn tụng trì bài kệ này, để kết duyên đời sau. Thưa thượng nhơn! Tôi ở đây giã gạo hơn 8 tháng chưa từng đi lên tới nhà trên, xin thượng nhơn dẫn tôi đến trước bài kệ để tôi lễ bái. Đồng Tử liền dẫn tôi đến trước bài kệ lễ bái. Đến trước bài kệ, Huệ Năng nói: “Huệ Năng không biết chữ, thỉnh thượng nhơn đọc cho nghe.”Lúc đó có viên quan Biệt Giá Giang Châu là Trương Nhật Dụng, đứng bên cao hứng lớn tiếng đọc to. Huệ Năng nghe xong liền nói: “tôi cũng có một bài kệ, xin quan Biệt Giá chép giùm”. Biệt Giá nói: “ông cũng làm kệ à ? Thật là kỳ lạ! Huệ Năng quay về hướng quan Biệt Giá mà nói rằng: “muốn học đạo Vô Thượng Bồ Đề, không được khinh chê người mới học đạo. Có kẻ ở vị trí thấp nhưng có trí tuệ thật cao siêu, có kẻ ở địa vị cao nhưng trí huệ lại thấp kém. Nếu khinh khi người thì liền mắc vô lượng vô biên tội.”Quan Biệt Giá nói: “ông hãy đọc kệ, tôi sẽ viết giùm cho. Nếu ông đắc pháp, phải độ ta trước, chớ quên lời này”. Huệ Năng đọc kệ:
菩 提 本 無 樹,  
明 鏡 亦 非 臺;
本 來 無 一 物,
何 處 惹 塵 埃?
「書 此 偈 已,徒 眾 總 驚,無 不 嗟 訝,各 相 謂 言:『奇 哉!不 得 以 貌 取 人,何 得 多 時,使 他 肉 身 菩 薩。』祖 見 眾 人 驚 怪,恐 人 損 害,遂 將 鞋 擦 了 偈,曰:『亦 未 見 性。』眾 以 為 然。「次 日,祖 潛 至 碓 坊,見 能 腰 石 舂 米,語 曰:『求 道 之 人,為 法 忘 軀,當 如 是 乎!』乃 問 曰:『米 熟 也 未?』惠 能 曰:『米 熟 久 矣,猶 欠 篩 在。』祖 以 杖 擊 碓 三 下 而 去。惠 能 即 會 祖 意,三 鼓 入 室;祖 以 袈 裟 遮 圍,不 令 人 見,為 說《金 剛 經》。
Bồ đề bổn vô thọ
Minh cảnh diệc phi đài
Bổn lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai?
Họa thử kệ dĩ, đồ chúng tổng kinh, vô bất ta nhạ, các tướng vị ngôn: “kỳ tai! Bất đắc dĩ mạo thủ nhơn, hà đắc đa thời, sử tha nhục thân bồ tát.” Tổ kiến chúng nhơn kinh quái, khủng nhơn tổn hại, toại tương hài sát liễu kệ, viết: “diệc vị kiến tánh.” Chúng dĩ vi nhiên. Thứ nhật, Tổ tiệm chí đối phường, kiến Năng yêu thạch thung mễ, ngữ viết: “cầu đạo chi nhơn, vi pháp vong khu, đương như thị hồ!” nãi vấn viết: “mễ thục dã vị?” Huệ Năng viết: “mễ thục cửu hỷ, du nhơ si tại.” Tổ dĩ trượng kích đối tam hạ nhi khứ. Huệ Năng tức hội Tổ ý, tam cổ nhập thất; tổ dĩ Ca Sa già vi, bất linh nhơn kiến, vi thuyết “Kim Cang Kinh”
        Bồ đề vốn không cây
        Gương sáng chẳng phải đài
        Xưa nay không một vật
        Chỗ nào dính bụi trần
        Bài kệ vừa viết xong, mọi người đều kinh ngạc, xuýt xoa trầm trồ, tán thán hết lời. Thật là kỳ lạ, không nên dựa vào dung mạo mà đánh giá người. Không ngờ nay có Bồ Tát mà lâu nay không biết, sai nhục thân Bồ Tát làm việc.
        Tổ thấy đồ chúng ngạc nhiên kinh hải, sợ người làm hại, nên lấy giày xóa hết bài kệ; và nói: “bài kệ này cũng chưa thấy tánh”. Mọi người cũng cho là phải.
        Hôm sau, Tổ một mình dần bước đến nhà giã gạo, nhìn thấy Huệ Năng hông đeo đá giã gạo. Tổ nói rằng: “người cầu đạo cần phải như thế, vì pháp quên thân, có phải vậy không?”Tổ lại hỏi Huệ Năng: “gạo trắng hay chưa?”Huệ Năng thưa: “gạo trắng đã lâu rồi, chỉ còn thiếu giần sàng”. Tổ lấy gậy gõ vào cối 3 cái rồi quay lưng đi. Huệ Năng ngầm hiểu  ý Tổ. Trống điểm canh 3 đêm đó, Huệ Năng vào phòng của Tổ; Tổ lấy Ca Sa che lại không cho người thấy, rồi nói kinh Kim Cang.
至『應 無 所 住 而 生 其 心』,惠 能 言 下 大 悟,一 切 萬 法,不 離 自 性。遂 啟 祖 言:『何 期 自 性,本 自 清 淨;何 期 自 性,本 不 生 滅;何 期 自 性,本 自 具 足;何 期 自 性,本 無 動 搖;何 期 自 性,能 生 萬 法。』祖 知 悟 本 性,謂 惠 能 曰:『不 識 本 心,學 法 無 益;若 識 自 本 心,見 自 本 性,即 名 丈 夫、天 人 師、佛。』三 更 受 法,人 盡 不 知,便 傳 頓 教 及 衣 缽,云:『汝 為 第 六 代 祖,善 自 護 念,廣 度 有 情,流 布 將 來,無 令 斷 絕。聽 吾 偈 曰:
Chí “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Huệ Năng ngôn hạ đại ngộ, nhứt thiết vạn pháp, bất ly tự tánh. Toại khải Tổ ngôn: “hà kỳ tự tánh, bổn tự thanh tịnh, hà kỳ tự tánh, bổn bất sanh diệt, hà kỳ tự tánh, bổn tự cụ túc, hà kỳ tự tánh bổn vô động dao, hà kỳ tự tánh, năng sanh vạn pháp.”Tổ tri ngộ bổn tánh, vị Huệ Năng viết: “bất thức bổn tâm, học pháp vô ích; nhược thức bổn tâm, kiến tự bản tánh, tức danh trượng phu, thiên nhơn sư, Phật.” tam canh thọ pháp, nhơn tận bất tri, tiện truyền đốn giáo cập y bát, vân: “nhữ vi đệ lục đại tổ, thiện tự hộ niệm, quảng độ hữu tình, lưu bố tương lai, vô linh đoạn tuyệt. Thính ngô kệ viết:
        Đến câu: “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” thì Huệ Năng ngay lời đó đại ngộ, tất cả vạn pháp không lìa tự tánh. Bèn bạch với Tổ:
        Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh
        Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt
        Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ
        Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng dao động
        Đâu ngờ tự tánh hay sanh vạn pháp.
        Tổ biết Huệ Năng đã ngộ được bản tánh mới bảo với Huệ Năng rằng: “không biết bổn tâm, học pháp vô ích; nếu biết bổn tâm, thấy được tự tánh, mới xứng danh là bậc trượng phu, là thầy của trời người, là, Phật”
        Canh 3 thọ pháp, trong chúng mọi người ngủ xay, không một ai hay biết. Tổ truyền Y Bát và pháp đốn giáo cho Huệ Năng và nói rằng: “Ngươi là Tổ đời thứ 6, khéo tự hộ niệm, rộng độ hữu tình, phổ biến lưu truyền cho đến đời sau, đừng để đoạn tuyệt. Nghe Ta nói kệ
       
有 情 來 下 種,
因 地 果 還 生,
無 情 既 無 種,
無 性 亦 無 生。』
「祖 復 曰:『昔 達 磨 大 師,初 來 此 土,人 未 之 信,故 傳 此 衣,以 為 信 體,代 代 相 承;法 則 以 心 傳 心,皆 令 自 悟 自 解。自 古,佛 佛 惟 傳 本 體,師 師 密 付 本 心;衣 為 爭 端,止 汝 勿 傳。若 傳 此 衣,命 如 懸 絲。汝 須 速 去,恐 人 害 汝。』
Hữu tình lai hạ chủng
Nhân địa quả hoàn sanh
Vô tình ký vô chủng,
Vô tình diệc vô sanh.
Tổ phục viết: “tích Đạt Ma đại sư, sơ lai thử độ, nhơn vị chi tín, cố truyền thử y, dĩ vi tín thể, đại đại tương thừa; pháp tắc dĩ tâm truyền tâm, giai linh tự ngộ tự giải. Tự cổ, Phật Phật duy truyền bản thể, sư sư mật phú bổn tâm; y vi tranh đoan, chỉ nhữ vật truyền. Nhược truyền thử y, mạng như huyền ti. Nhữ tu tốc khứ, khủng nhơn hại nhữ.”
        Hữu tình được gieo giống
        Nhơn gieo ắt sanh quả
        Vô tình không hạt giống
        Không tánh cũng không sanh.
Tổ lại nói: “khi xưa Đức Đạt Ma Đại Sư, ban đầu tới xứ này, nhơn vì người ta chưa có lòng tin kiên cố vào chánh pháp nên mới truyền y bát làm biểu tín. Đời đời truyền nhau trở thành phép tắc, pháp thì lấy tâm truyền tâm, đều khiến cho tự ngộ tự giải. Từ xưa Phật chỉ truyền bản thể, Tổ Tổ thì mật trao bản tâm. Y là đầu mối của sự tranh giành, nên đến đời ông dừng lại không truyền nữa. Nếu truyền y này thì mạng của người nhận y giống như sợi tơ mành treo trước gió. Nay ông nên đi nhanh đi, sợ người hại ông.
惠 能 啟 曰:『向 甚 處 去?』祖 云:『逢 懷 則 止,遇 會 則 藏。』惠 能 三 更 領 得 衣 缽,云:『能 本 是 南 中 人,素 不 知 此 山 路,如 何 出 得 江 口?』五 祖 言:『汝 不 須 憂,吾 自 送 汝。』祖 相 送,直 至 九 江 驛。祖 令 上 船,五 祖 把 艣 自 搖。惠 能 言:『請 和 尚 坐。弟 子 合 搖 艣。』祖 云:『合 是 吾 渡 汝。』惠 能 云:『迷 時 師 度,悟 了 自 度;度 名 雖 一,用 處 不 同。惠 能 生 在 邊 方,語 音 不 正,蒙 師 傳 法,今 已 得 悟,只 合 自 性 自 度。』祖 云:『如 是,如 是!以 後 佛 法,由 汝 大 行。汝 去 三 年,吾 方 逝 世。汝 今 好 去,努 力 向 南。不 宜 速 說,佛 法 難 起。』 
Huệ Năng khải viết: “hướng thậm xứ khứ?” Tổ vân: “phùng hoài tắc chỉ, ngụ hội tắc tạng.” Huệ Năng tam canh lảnh đắc y bát, vân: “Năng bổn thị nam nhơn trung, tố bất tri thử sơn lộ, như hà xuất đắc giang khẩu?” Ngũ Tổ ngôn: “nhữ bất tu ưu, ngô tự tống nhữ.”Tổ tương tống, trực chí cửu giang dịch. Tổ linh thượng thuyền, Ngũ tổ bả lỗ tự dao. Huệ Năng ngôn: “thỉnh hòa thượng tọa. Đệ tự tự diêu lỗ.” Tổ vân: “hợp thị ngô độ nhữ.” Huệ Năng vân: “mê thời sư độ, ngộ liễu tự độ; độ danh tuy nhứt, dụng xứ bất đồng. Huệ Năng sanh tại biên phương, ngữ âm bất chánh, mông sư truyền pháp, linh dĩ đắc ngộ, chỉ hợp tự tánh tự độ.” Tổ vân: “như thị, như thị! Dĩ hậu Phật pháp, do nhữ đại hành. Nhữ khứ tam niên, ngô phương thệ thế. Nhữ linh hảo khứ, nổ lực hướng nam. Bất nghi tốc thuyết, Phật pháp nan khởi.”
        Huệ Năng thưa: “bây giờ con phải đi đâu?”Tổ bảo: “gặp Hoài thì ở, gặp Hội thì ẩn”[Hoài tức là Hoài Tập, nay là Ngô Châu xứ Quảng Châu; Hội tức là Tứ Hội nay là Tân Hội xứ Quảng Đông]. Canh 3 Huệ Năng lảnh được y bát, và thưa: “bạch Hòa Thượng! Huệ Năng con vốn là người Lảnh Nam, nên ở đây không biết đường đi, thì làm sao con ra được đến bến đò”. Ngũ Tổ bảo: “ông không phải lo, tự Ta sẽ đưa ông đi”. Tổ đưa đến bến đò Cửu Giang, Tổ bảo lên thuyền, Ngũ Tổ tự tay cầm chèo để chèo. Huệ Năng thưa: “thỉnh Hòa Thượng ngồi, để đệ tử chèo.”Tổ bảo: “để Ta độ ông”. Huệ Năng thưa: “khi mê thì thầy độ, ngộ rồi thì tự độ; chữ độ đồng tên khác nghĩa nên chỗ dùng không đồng. Huệ Năng con sanh vùng biên địa, ngữ âm không chính; nhờ thầy truyền pháp, nay đã ngộ rồi, chỉ hợp tự tánh tự độ.”Tổ bảo: “đúng thế, đúng thế! về sau Phật pháp do ông mà thịnh hành. Ông đi 3 năm Ta sẽ tạ thế. Chúc ông lên đường an vui, cố gắng đi nhanh về phương Nam, không nên đăng đàn thuyết pháp truyền bá chánh pháp sớm. Phật pháp sẽ gặp nạn.
「惠 能 辭 違 祖 已,發 足 南 行。兩 月 中 間,至 大 庾 嶺 (五 祖 歸,數 日 不 上 堂。眾 疑,詣 問 曰:『和 尚 少 病 少 惱 否?』曰:『病 即 無。衣 法 已 南 矣。』問:『誰 人 傳 授?』曰:『能 者 得 之。』眾 乃 知 焉)。逐 後 數 百 人 來,欲 奪 衣 缽。一 僧 俗 姓 陳,名 惠 明,先 是 四 品 將 軍,性 行 麤 慥,極 意 參 尋。為 眾 人 先,趁 及 惠 能。惠 能 擲 下 衣 缽 於 石 上,云:『此 衣 表 信,可 力 爭 耶?』能 隱 草 莽 中。惠 明 至,提 掇 不 動,乃 喚 云:『行 者!行 者!我 為 法 來,不 為 衣 來。』惠 能 遂 出,坐 盤 石 上。惠 明 作 禮 云:『望 行 者 為 我 說 法。』
Huệ Năng từ vi Tổ dĩ, phát túc nam hành. Lưỡng nguyệt trung gian, chí đại dữu lảnh (Ngũ Tổ quy, số nhựt bất chỉ đường. chúng nghi, nghệ vấn viết: “hòa thượng thiểu bệnh thiểu não phủ?” viết: “bệnh tức vô, y pháp dĩ nam hỷ.” Vấn: “thùy nhơn truyền thọ?” viết: “Năng giả đắc chi.” Chúng nãi trí yên). Trục hậu số bá nhơn lai, dục đoạt y bát. Nhứt tăng tục tánh Trần, danh Huệ Minh, tiên thị tứ phẩm tướng quân, tánh tình thô tháo, cự ý tham tầm. Vi chúng nhơn tiên, sấn cập Huệ Năng. Huệ Năng trịch hạ y bát ư thạch thượng, vân: “thử y biểu tín, khả lực tranh gia?” Năng ẩn thảo mãng trung. Huệ Minh chí, đề xuyết bất động, nãi hoán vân: “hành giả, hành giá! Ngã vi pháp lai, bất vi y lai.” Huệ Năng toại xuất, toạn bàn thạch thượng. Huệ Minh tác lễ vân: “vọng hành giả vi ngã thuyết pháp.”
        Huệ Năng đảnh lễ và từ giã Ngũ Tổ, rồi một mình cất bước hành trình về phương Nam, chưa đầy 2 tháng thì đến ngọn núi Đại Dữu.
        (Sau khi đức Ngũ Tổ về, mấy ngày liền không lên Thiền Đường, mọi người sanh nghi, mới đến bạch với Hòa Thượng: “Ngài có ít bệnh, ít não chăng”? Ngũ Tổ đáp: “bệnh thì không, nhưng y pháp đã về phương Nam rồi.” Chúng hỏi: “ai là người được Hòa Thượng truyền y bát”. Ngũ Tổ bảo: “Huệ Năng là người đắc pháp”. Lúc đó đại chúng mới hay.) Nên có mấy trăm người đuổi theo, muốn giành lại y bát. Trong số người đuổi theo có một vị tăng tên là Trần Huệ Minh, trước khi xuất gia ông vốn là Tướng Quân quan Tứ Phẩm, tánh tình lỗ mãng, quyết chí đoạt lại cho bằng được, tiên phong chạy trước mọi người, đuổi kịp Huệ Năng. Huệ Năng để y bát trên tảng đá và nói rằng: “y này là biểu tín, có thể dùng sức đoạt lại được sao?”Huệ Năng ẩn mình trong đám cỏ. Huệ Minh đến, thấy y mừng quá dùng 2 tay lấy hết sức bình sinh nâng y lên nhưng không nhúc nhích, liền kêu to: “hành giả, hành giả! Tôi đến vì pháp chứ không phải đến vì y.”Huệ Năng liền bước ra ngồi trên tảng đá. Huệ Minh đảnh lễ và thưa: “cúi xin hành giả vì tôi mà thuyết pháp.”
惠 能 云:『汝 既 為 法 而 來,可 屏 息 諸 緣,勿 生 一 念。吾 為 汝 說。』明 良 久。惠 能 云:『不 思 善,不 思 惡,正 與 麼 時,那 箇 是 明 上 座 本 來 面 目?』惠 明 言 下 大 悟。復 問 云:『上 來 密 語 密 意 外,還 更 有 密 意 否?』惠 能 云:『與 汝 說 者,即 非 密 也。汝 若 返 照,密 在 汝 邊。』
Huệ Năng vân: “nhữ ký vi pháp nhi lai, bình tức chư duyên, vật sanh nhứt niệm. Ngô vị nhữ thuyết.” Minh lương cửu. Huệ Năng vân: “bất tư thiện, bất tư ác, chánh dữ ma thời, na cá thị minh thượng tọa bổn lai diện mục?” Huệ Minh ngôn hạ đại ngộ. Phục vấn vân: “thượng lai mật ngữ ý ngoại, hoàn cánh hữu mật ý phủ?” Huệ Năng vân: “dữ nhữ thuyết giả, tức phi mật dã. Nhữ nhược phản chiếu, mật tại nhữ biên.” Minh viết: Huệ Minh tuy tại Hoàng Mai, thật vị tỉnh tự kỷ diện mục.
        Huệ Năng nói rằng: “ông đã vì pháp mà đến đây thì nên dứt bặt các duyên, dù cho một niệm cũng không sanh, Ta sẽ vì ông mà thuyết pháp.
        Huệ Minh lặng lòng lắng yên một hồi lâu. Huệ Năng nói: “chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, chính khi ấy cái gì là bản lai diện mục của Thượng Tọa Huệ Minh?”Huệ Minh ngay câu nói đó liền đại ngộ. Lại hỏi thêm rằng: “ngoài lời kín đáo và ý bí mật kể trên, còn có mật ý nào nữa chăng?”Huệ Năng nói: “vì ông mà nói tức không phải bí mật vậy. Nếu ông phản chiếu, tức mật ngữ ở bên ông.
明 曰:『惠 明 雖 在 黃 梅,實 未 省 自 己 面 目。今 蒙 指 示,如 人 飲 水,冷 暖 自 知。今 行 者 即 惠 明 師 也。』惠 能 曰:『汝 若 如 是,吾 與 汝 同 師 黃 梅,善 自 護 持。』明 又 問:『惠 明 今 後 向 甚 處 去?』惠 能 曰:『逢 袁 則 止,遇 蒙 則 居。』明 禮 辭 (明 回 至 嶺 下,謂 趁 眾 曰:『向 陟 崔 嵬,竟 無 蹤 跡,當 別 道 尋 之。』趁 眾 咸 以 為 然。惠 明 後 改 道 明,避 師 上 字)
Minh viết: Huệ Minh tuy tại Hoàng Mai, thật vị tỉnh tự kỷ diện mục. Linh mông chỉ thị, như nhơn ẩm thủy, lảnh noản tự tri. Linh hành giả tức Huệ Minh sư.” Huệ Năng viết: “nhữ nhược như thị, ngô dữ ngữ đồng sư Huỳnh Mai, thiện tự hộ trì.” Minh hựu vấn: “Huệ Minh linh hậu hướng thậm xứ khứ?” Huệ Năng viết: “phùng viễn tắc chỉ, ngụ mông tắc cư.” Minh lễ từ (Minh hồi chí lảnh hạ, vị sấn chúng viết: “hướng trắc thôi ngôi, cánh vô sỉ tích, đương biệt đạo tầm chi.” Sấn chúng hàm dĩ vi nhiên. Huệ minh hậu cải Đạo minh, tỵ sư thượng tự.)
        Huệ Minh thưa: “Huệ Minh tuy ở tại Hoàng Mai đã lâu, thật chưa thấy được bản lai diện mục của mình. Nay nhờ sự chỉ dạy của Thầy mới thấy được bản lai diện mục, như người uống nước, lạnh nóng tự biết. Nay hành giả tức là Thầy của Huệ Minh.
        Huệ Năng nói: “nếu ông như vậy, Ta và ông đều thờ  đức Hoàng Mai làm Thầy, từ nay về sau khéo hộ trì chánh pháp”.Huệ Minh lại thưa: “từ nay về sau Huệ Minh nhằm nơi nào mà đi?”Huệ Năng nói: “gặp Viễn thì ở, gặp Mông thì ẩn”. Huệ Minh lễ tạ và từ giả quay về. (Huệ Minh trở về, xuống núi bảo với mọi người đuổi theo: “ta tìm khắp trên ngọn núi này, không thấy tung tích gì cả, chúng ta nên đi tìm nơi khác. Mọi người cùng đuổi theo đều tin. Sau Huệ Minh đổi tên là Đạo Minh để tránh phạm húy tên của Thầy mình.)
「惠 能 後 至 曹 溪,又 被 惡 人 尋 逐。乃 於 四 會,避 難 獵 人 隊 中,凡 經 一 十 五 載,時 與 獵 人 隨 宜 說 法。獵 人 常 令 守 網,每 見 生 命,盡 放 之。每 至 飯 時,以 菜 寄 煮 肉 鍋。或 問,則 對 曰:『但 喫 肉 邊 菜。』
「一 日 思 惟:『時 當 弘 法,不 可 終 遯。』遂 出 至 廣 州 法 性 寺,值 印 宗 法 師 講《涅 槃 經》。時 有 風 吹 旛 動,一 僧 曰:『風 動。』一 僧 曰:『旛 動。』議 論 不 已。惠 能 進 曰:『不 是 風 動,不 是 旛 動,仁 者 心 動。』一 眾 駭 然。
Huệ Năng hậu chí tào khê, hựu bị ác nhơn tầm trục, tỵ nạn liệp nhơn đội trung, phàm kinh nhứt thập ngũ tải, thời dữ liệp nhơn tùy nghi thuyết pháp. Liệp nhơn thường linh thủ cương, mỗi kiến sanh mạng, tận phóng chi. Mỗi chí phạn thời, dĩ thái ký chử nhục oa. Hoặc vấn, tắc đối viết: “đản khiết nhục biên thái.” Nhứt nhật tư duy: “thời đương hoằng pháp, bất khả chung độn.” Toại xuất chí Quảng Châu Pháp Tánh tự, trực Ấn Tông pháp sư giảng “Niết Bàn Kinh”. Thời hữu phong suy phan động, nhứt tăng viết: “phong động”. Nhứt tăng viết: “phan động”. Nghị luận bất dĩ. Huệ Năng tấn viết: “bất khả phong động, bất khả phan động, nhân giả tâm động.” nhứt chúng hãi nhiên.
        Huệ Năng, sau đến Tào Khê, lại bị bọn người ác tìm theo bắt, nên tỵ nạn trong đám thợ săn, trãi qua 15 năm; khi đó cùng với những người thợ săn tùy nghi nói pháp. Những thợ săn thường sai giữ lưới, mỗi khi thấy con vật mắc lưới, liền thả nó ra. Mỗi khi đến bữa ăn, hái rau gửi luộc trong nồi thịt, khi có người hỏi thì trả lời: “chỉ thích ăn rau luộc bên cạnh thịt mà thôi.”
        Một ngày nọ suy nghĩ: “đã đến lúc hoằng dương chánh pháp, không nên ẩn tránh nữa. Liền dời gót đi đến chùa Pháp Tánh xứ Quảng Châu, gặp Ấn Tông pháp sư giảng kinh Niết Bàn. Lúc đó gió thổi phướn bay, 2 vị tăng tranh luận; một vị bảo: “gió động”một vị bảo: “phướn động.”tranh luận không ngừng. Huệ Năng bước tới liền nói: “chẳng phải gió động cũng chẳng phải phướn động mà chính là tâm 2 vị động.” Cả chúng nhạc nhiên kinh hoàng.
印 宗 延 至 上 席,徵 詰 奧 義。見 惠 能 言 簡 理 當,不 由 文 字,宗 云:『行 者 定 非 常 人。久 聞 黃 梅 衣 法 南 來,莫 是 行 者 否?』惠 能 曰:『不 敢。』宗 於 是 作 禮,告 請 傳 來 衣 缽 出 示 大 眾。宗 復 問 曰:『黃 梅 付 囑,如 何 指 授?』惠 能 曰:『指 授 即 無;惟 論 見 性,不 論 禪 定 解 脫。』宗 曰:『何 不 論 禪 定 解 脫?』能 曰:『為 是 二 法,不 是 佛 法。佛 法 是 不 二 之 法。』
Ấn Tông dẫn chí thượng tịch, trưng cật áo nghĩa. Kiến Huệ Năng ngôn giản lý đương, bất do văn tự, Tông vân: “hành giả định phi thường nhơn. Cửu văn Huỳnh Mai y pháp nam lai, mạc thị hành già phủ?” Huệ Năng viết: “bất cảm.” Tông ư thị tác lễ, cáo thỉnh truyền lai y bát xuất thị đại chúng. Tông phục vấn viết: “Huỳnh Mai phú chúc, như hà chỉ thọ?” Huệ Năng viết: “chỉ thọ tức vô, duy luận kiến tánh, bất luận thiền định giải thoát.” Tông viết: “hà bất luận thiền định giải thoát?” Năng viết: “bi thị nhị pháp, bất thị Phật pháp. Phật pháp thị bất nhị chi pháp.”
        Ấn Tông đưa Huệ Năng lên ngồi chiếu trên, gạn hỏi những nghĩa lý thâm sâu, thấy Huệ Năng trả lời gọn gàng mà đúng lý, không cần y cứ vào văn tự. Ấn Tông nói: “hành giả nhất định chẳng phải là người bình thường. Từ lâu đã nghe y pháp của Tổ Hoàng Mai về phương Nam, có phải hành giả là người đắc pháp không?”
        Huệ Năng nói: “không dám”
        Ấn Tông liền đảnh lễ, xin thỉnh y bát cho đại chúng xem. Ấn Tông lại hỏi: “đức Ngũ Tổ Hoàng Mai phú chúc, truyền thọ như thế nào?”Huệ Năng nói: “truyền thọ thì không, chỉ luận kiến tánh, không luận thiền định giải thoát.” Ấn Tông nói: “vì sao không luận thiền định giải thoát?” Huệ Năng trả lời: “vì đó là hai pháp, chẳng phải là Phật pháp. Phật pháp là pháp không hai.”
宗 又 問:『如 何 是 佛 法 不 二 之 法?』惠 能 曰:『法 師 講《涅 槃 經,明 佛 性,是 佛 法 不 二 之 法。如 高 貴 德 王 菩 薩 白 佛 言:「犯 四 重 禁、作 五 逆 罪,及 一 闡 提 等,當 斷 善 根 佛 性 否?」佛 言:「善 根有 二:一 者 常,二 者 無 常,佛 性 非 常 非 無 常,是 故 不 斷,名 為 不 二。一 者 善 ,二 者 不 善,佛 性 非 善 非 不 善,是 名 不 二。蘊 之 與 界,凡 夫 見 二,智 者 了 達 其 性 無 二,無 二 之 性 即 是 佛 性。」』
Tông hựu vấn: “như hà thị Phật pháp bất nhị chi pháp?” Huệ Năng viết: “pháp sư giảng “Niết Bàn Kinh”, minh Phật tánh, thị Phật pháp bất nhị chi pháp. Như Cao Quý Đức vương bồ tát bạch Phật ngôn: “phạm tứ trọng cấm, tác ngũ nghịch tội, cập nhứt xiển đề đẳng, đương đoạn thiện căn Phật tánh phủ?” Phật ngôn: “thiện căn hữu nhị: nhứt giả thường, nhị giả vô thường, Phật tánh phi thường phi vô thường, thị cố bất đoạn, danh vi bất nhị. Nhứt giả thiện, nhị giả bất thiện, Phật tánh phi thiện phi bất thiện, thị danh bất nhị. Uẩn chư dữ giới, phàm phu kiến nhị, trí giả liễu đạt kỳ tánh vô nhị, vô nhị chi tánh tức thị Phật tánh.”
        Ấn Tông lại hỏi: “thế nào là pháp không hai của Phật pháp”. Huệ Năng nói: “pháp sư giảng kinh Niết Bàn, đã rõ Phật tánh ấy là pháp bất nhị của Phật giáo. Như Cao Quy Đức Vương Bồ Tát bạch Phật rằng: “phạm 4 trọng giới cấm, tạo tội ngũ nghịch và nhất Xiển Đề .v.v..sẽ đoạn mất thiện căn Phật tánh không?”Phật bảo: “thiện căn có 2, một là thường, hai là vô thường. Phật tánh chẳng phải thường chẳng phải vô thường, cho nên không đoạn, gọi là không hai. Một là thiện, hai là bất thiện; Phật tánh chẳng phải thiện chẳng phải bất thiện, cho nên gọi là không hai. 5 uẩn và các giới, phàm phu thấy có 2, bật trí giả hiểu rõ nó tánh không hai, tánh không hai tức là Phật tánh.”
印 宗 聞 說,歡 喜 合 掌,言:『某 甲 講 經,猶 如 瓦 礫;仁 者 論 義,猶 如 真 金。』於 是 為 惠 能 剃 髮,願 事 為 師。惠 能 遂 於 菩 提 樹 下,開 東 山 法 門。 「惠 能 於 東 山 得 法,辛 苦 受 盡,命 似 懸 絲。今 日 得 與 使 君、官 僚、僧 尼、道 俗 同 此 一 會,莫 非 累 劫 之 緣,亦 是 過 去 生 中 供 養 諸 佛,同 種 善 根,方 始 得 聞 如 上 頓 教 得 法 之 因。教 是 先 聖 所 傳,不 是 惠 能 自 智。願 聞 先 聖 教 者,各 令 淨 心,聞 了 各 自 除 疑,如 先 代 聖 人 無 別。」一 眾 聞 法,歡 喜 作 禮 而 退。
Ấn Tông văn thuyết, hoan hỷ hiệp chưởng, ngôn: “mổ giáp giảng kinh, du như ngõa lịch; nhơn giả luận nghị, du như chơn kim.” Ư thị vi Huệ Năng thế phát, nguyện sự vi sư. Huệ Năng toại ư bồ đề thọ hạ, khai đông sơn pháp môn. Huệ Năng ư đông sơn đắc pháp, tân khổ thọ tận, mạng tợ huyền ti. Kim nhựt đắc dữ sử quân, quan liêu, tăng ni, đạo tục đồng thử nhứt hội, mạc phi lụy kiếp chi duyên, diệc thị quá khứ sanh trung cúng dường chư Phật, đồng chủng thiện căn, phương thủy đắc văn như thượng đốn giáo đắc pháp chi nhơn. Giáo thị tiên thánh sở truyền, bất thị Huệ Năng tự trí. Nguyện văn tiên thánh giáo giả, các linh tịnh tâm, văn liễu các tự trừ nghi, như tiên đại thánh nhơn vô biệt. Nhứt chúng văn pháp, hoan hỷ tác lễ như thối.
        Ấn Tông nghe nói, hoan hỷ chấp tay nói: “tôi giảng kinh giống như gạch ngói, nhơn giả luận nghị giống như vàng ròng.” Vì Tam Bảo cửu trụ thỉnh Huệ Năng thế phát, nguyện thờ Huệ Năng làm thầy.
        Huệ Năng ngồi dưới cội bồ đề, khai pháp môn Đông Sơn. Huệ Năng đắc pháp ở Đông Sơn, chịu tất cả những cay đắng khổ sở, mạng sống như tơ mành treo trước gió. Ngày nay được Sử Quân, quan viên, tăng ni, đạo tục đồng ở trong đạo tràng pháp hội, đâu không phải do duyên nhiều kiếp; cũng ở trong đời quá khứ từng cúng dường Phật, cùng gieo trồng giống căn lành nay mới nghe được cai nhân pháp môn đốn giáo này. Giáo pháp là do các vị Thánh xưa truyền lại. Chẳng phải tự trí của Huệ Năng. Người muốn nghe giáo pháp của bậc Thánh xưa, phải làm cho tâm thanh tịnh, nghe rồi mỗi người tự trừ nghi như những các bậc Thánh nhơn đời trước không khác. Mọi người nghe pháp đều hoan hỷ làm lễ mà lui ra.
THÍCH THỊ TẤN DỊCH

Thứ Hai, 21 tháng 10, 2013

KINH PHÁP BẢO ĐÀN



法寶壇經
六祖大師法寶壇經序

古 筠 比 丘 德 異 撰
妙 道 虛 玄 不 可 思 議,忘 言 得 旨 端可 悟 明。故 世 尊 分 座 於多 子 塔 前,拈 華 於 靈 山 會 上,似 火 與 火,以 心 印 心。西 傳 四 七,至 菩 提 達 磨。東 來 此 土,直 指 人 心,見 性 成 佛。有 可 大 師 者,首 於 言 下 悟 入,末 上 三 拜 得 髓,受 衣 紹 祖 開 闡 正 宗,三 傳 而 至 黃 梅,會 中 高 僧 七 百,惟 負 舂 居 士,一 偈 傳 衣 為 六 代 祖,南 遯 十 餘 年,一 旦 以 非 風 旛 動 之 機,觸 開 印 宗 正 眼。居 士 由 是 祝 髮 登 壇,應 跋 陀 羅 懸 記,開 東 山 法 門,韋 使 君 命 海 禪 者 錄 其 語,目 之 曰 法 寶 壇 經。大 師 始 於 五 羊,終 至 曹 溪,說 法 三 十 七 年,霑 甘 露 味,入 聖 超 凡 者,莫 記 其 數,悟 佛 心 宗,行 解 相 應,為 大 知 識 者,名 載 傳 燈。惟 南 嶽 青 原,執 侍 最 久,盡 得 無 巴 鼻。故 出 馬 祖 石頭 ,機 智 圓 明,玄 風 大 震,乃 有 臨 濟 溈 仰、曹 洞、雲 門、法 眼 諸公 巍 然 而 出,道 德 超 群,門 庭 險 峻,啟 迪 英 靈,衲 子 奮 志 衝 關,一 門 深 入,五 派 同 源,歷 遍 罏 錘,規 模 廣 大,原 其 五 家 綱 要,盡 出 《壇 經》。夫 《壇 經》者,言 簡 義 豐,理 明 事 備,具 足 諸 佛 無 量 法 門,一 一 法 門 具 足 無 量 妙 義,一 一 妙 義 發揮 諸 佛 無 量 妙 理。即 彌 勒 樓 閣 中,即 普 賢 毛 孔 中。善 入 者 即 同 善 財 於 一 念 間 圓 滿 功 德,與 普 賢 等、與 諸 佛 等。惜 乎《壇 經》為 後 人 節 略 太 多,不 見 六 祖 大 全 之 旨。德 異 幼 年,嘗 見 古 本,自 後 遍 求 三 十 餘 載,近 得 通 上 人 尋 到 全 文,遂 刊 于 吳 中 休 休 禪 庵,與 諸 勝 士 同 一 受 用。惟 願 開 卷,舉 目 直入 大 圓 覺 海,續 佛 祖 慧 命 無 窮,斯 余 志 願 滿 矣。
至 元 二 十 七 年 庚 寅 歲 中 春 日 敘。
Phiên âm: Cổ quân Tỳ Kheo Đức Dị soạn.
Diệu đạo hư huyền bất khả tư nghì, vong ngôn đắc chỉ đoan khả ngộ minh. Cố Thế Tôn phân tòa ư đa tử tháp tiền niêm hoa ư Linh Sơn hội thượng, tợ hỏa dữ hỏa, dĩ tâm ấn tâm. Tây truyền tứ thất, chí Bồ Đề Đạt Ma. Đông lai thử độ, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật. Hữu khả Đại Sư giả, thủ ư ngôn hạ ngộ nhập, mạc thượng tam bái đắc tủy, Thọ y thiệu tổ khai xiển chánh tông, tam truyền nhi chí Hoàng Mai, hội trung Cao Tăng thất bá, duy Phụ Thung cư sĩ, nhứt kệ y vi lục đại Tổ, nam độn thập dư niên, nhứt đán dĩ phi phong phan động chi cơ, xúc khai Ấn Tông chánh nhãn. Cư sĩ do thị chúc phát đăng đàn, ứng Bạt Đà La huyền ký, khai Đông Sơn pháp môn, Vi sử quân mạng Hải thiền sư giả lục kỳ ngữ, mục chi viết “Pháp Bảo Đàn Kinh”. Đại sư thủy ư Ngũ Dương, chung chí Tào Khê, thuyết pháp tam thập thất niên, Triêm cam lộ vị, nhập thánh siêu phàm giả, mạc ký kỳ số, ngộ Phật tâm tông, hạnh giải tương ưng, vi đại trí thức giả, danh tải truyền đăng. Duy Nam Nhạc Thanh Nguyên, chấp thị tối cửu, tận đắc vô ba tỷ. Cố xuất Mã Tổ Thạch Đầu, cơ trí viên minh, huyền phong đại chấn, nãi hữu Lâm Tế- Quy Ngưỡng- Tào Động- Vân Môn- Pháp Nhãn chư công nguy nhiên nhi xuất, đạo đức siêu quần, môn đình hiểm tuấn, khải địch anh linh, nạp tử phấn chí xung quan, nhứt môn thâm nhập, ngũ phái đồng nguyên, lịch biến lư chùy, quy mô quảng đại, nguyên kỳ ngũ gia cương yếu, tận xuất “Đàn Kinh”. Phù  “ Đàn Kinh” giả, ngôn giản nghĩa phong, lý minh sự bị, cụ túc chư Phật vô lượng pháp môn, nhứt nhứt pháp môn cụ túc vô lượng diệu nghĩa, nhứt nhứt diệu nghĩa phát huy chư Phật vô lượng diệu lý. Tức Di Lặc lầu các trung, tức Phổ Hiền mao khổng trung. Thiện nhơn giả, tức đồng Thiện Tài ư nhứt niệm gian viên mãn công đức, dữ Phổ Hiền đẳng, dữ chư Phật đẳng. Tích hồ “Đàn Kinh” vi hậu nhơn tiết lược thái đa, bất kiến Lục Tổ đại toàn chi chỉ. Đức Dị ấu niên, thường kiến cổ bổn, tự hậu biến cầu tam thập dư tải, cận đắc thông thượng nhơn tầm đáo toàn văn, toại khan vu ngô trung hưu hưu thiền am dữ chư thắng sĩ đồng nhứt thọ dụng. Duy nguyện khai quyển, cử mục trực nhập đại viên giác hải, tục Phật tổ huệ mạng vô cùng, tư dư chí nguyện mãn hỷ. Chí Nguyên nhị thập thất niên canh dần tuế trung xuân nhựt tự.
Dịch nghĩa 
Đạo pháp vi diệu, không thễ nghĩ bàn, quên lời đạt ý mới thấu hiểu thâm sâu của lẻ nhiệm mầu giải thoát. Khi xưa đức Thế Tôn thuyết pháp tại hội Linh Sơn trước tháp Đa Tử chia nữa tòa ngồi cho tôn giả Ca Diếp, đức Như Lai tay cầm cành hoa đưa lên trước đại chúng, mọi người lặng im chỉ có tôn giả Ca Diếp mỉm cười như ngầm chỉ mối đạo huyền vi sẽ được truyền tâm ấn, giống như lấy lửa truyền lửa, dùng tâm ấn tâm.
        Ấn Độ khi xưa, sơ tổ Ca Diếp nối nắm truyền thừa cho đến tổ Bồ Đề Đạt Ma là vị tổ thứ 28, Ngài từ Tây Vực vượt suối băng ngàn mang trong mình tư tưởng Thiền Tông: “ Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”. Hoằng khai giáo pháp tại xứ Trung Hoa. Đại sư Huệ Khả trí tuệ siêu phàm, đạo vừa khai diễn tỏ ngộ tự tâm, giáo pháp tận tường thấm vào xương tủy, lạy tổ Bồ Đề Đạt Ma 3 lạy, thọ nhận pháp y, nối dòng chánh pháp làm sơ tổ Trung Hoa. Xiển dương chánh pháp truyền đến đại sư Hoằng Nhẫn, tức đức Hoàng Mai là đời thứ 4.
        Trong hội chúng của ngũ tổ Hoàng Mai có trên 700 cao tăng thạc đức, duy chỉ có Phụ Thung cư sĩ (tức là Lục tổ Huệ Năng) chỉ một bài kệ kiến tánh mà được truyền chánh pháp nhãn tạng, Y Pháp biểu tín làm tổ đời thứ 6. Nhưng tổ phải ẩn cư hơn 10 năm  Phương Nam  ở nơi vùng thâm viễn trước khi chính thức hoằng dương chánh pháp.
        Một ngày nọ, nhân có 2 vị tăng ở chùa Pháp Tánh thuộc xứ Quảng Châu tranh luận về: “phướn động hay gió động”, Ngài Huệ Năng nhơn việc này mà khai thị chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm cho Ấn Tông. Nhơn dịp này cư sĩ Phụ Thung được thế phát đăng đàn Cụ Túc, Tăng Bảo pháp đàm mở hội thuyết pháp triển chuyển Đông Sơn pháp môn chấn động 10 phương, ứng nghiệm huyền ký của ngài Bạt Đà Bà La đã tuyên thuở trước.
        Quan Vi Thứ Sử giao cho thiền sư Pháp Hải ghi chép lời thuyết pháp của tổ Huệ Năng, hiệp thành một bổn, nhan đề là kinh Pháp Bảo Đàn.
        Lục Tổ ban đầu ở Ngũ Dương, sau đến Tào Khê, thuyết pháp 37 năm, rưới cam lộ pháp vị khắp nơi. Các bậc nhập thánh siêu phàm nhiều không thể kể xiết. Còn những vị hiểu rõ Phật Tâm tông chỉ, hạnh giải tương ưng, thành bậc đại trí thức thì có lưu danh trong quyển Truyền Đăng Lục. Duy chỉ có 2 vị thiền sư Nam Nhạc Nhượng và Thanh Nguyên Tư, nhờ theo phụng sự tổ Huệ Năng lâu năm, nên cả 2 được truyền diệu pháp.
        Ngài Mã Tổ Đạo Nhất là đệ tử của ngài Nam Nhạc, ngài Thạch Đầu là đệ tử của ngài Thanh Nguyên, 2 vị đệ tử này trí tuệ siêu phàm, diệu huyền thông đạt, đều nhờ 2 vị thiền sư bậc thầy tâm linh là  thiền sư Nam Nhạc và Thanh Nguyên truyền dạy.
        Còn các tông phái như Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn, là các bậc như vầng thái sơn nguy nga xuất hiện, đạo đức siêu quần, bậc hiền nhân trong chốn không môn, ngộ chơn thừa dể như lấy ra từ túi áo.Các vị của các tông phái này đều nổ lực hoằng dương giáo pháp, dày công dìu dắt chúng sanh, quy mô rộng lớn, giáo pháp đại thừa. Giáo pháp mà 5 tông phái kể trên truyền bá, đều phát xuất từ Pháp Bảo Đàn Kinh.
        Pháp Bảo Đàn Kinh lời văn thì giản dị, nghĩa lý thật cao siêu, lý thì rõ ràng trong sáng, chứa trọn đầy đủ pháp môn của chư Phật, mỗi mỗi pháp môn thì đầy đủ vô lượng diệu nghĩa, mỗi mỗi diệu nghĩa thì chuyển tải lột tả hết ý nghĩa thâm sâu và phát huy vô lượng diệu lý của chư Phật, tức là diệu pháp Chơn Không của ngài Di Lặc và thần thông biến hóa của đức Phổ Hiền.Nếu ai đạt được diệu pháp này tức đồng chứng một  bực với Thiện Tài đồng tử. Nếu trong một niệm tưởng mà công đức viên mãn thì cũng đặng chứng quả như đức Phổ Hiền bồ tát, đồng hàng với chư Phật.
        Tiếc thay quyển Pháp Bảo Đàn người đời sau tóm lược quá nhiều, nên chẳng thấy được tôn chỉ đại toàn của đức Lục Tổ.
        Đức Dị tôi khi còn nhỏ thường xem bản xưa đều thấy lược văn phong cho nên sau này lớn lên đi khắp nơi tiềm kiếm trãi qua hơn 30 năm nhưng không được, mãi cho đến gần đây duyên lành hội đủ gặp được một bậc thượng nhơn cho xem toàn văn bản Pháp Bảo Đàn Kinh. Đức Dị tôi vui mừng khôn siết liền phát tâm in khắc lưu giữ nơi thiền am của tôi, ở nước Ngô, để cho các bậc cao minh thạc đức cùng xử dụng.
        Đức Dị tôi chỉ mong cầu chư vị khi mở quyển kinh này ra xem, liền được đại giác ngộ, nối huệ mạng của Phật tổ Như Lai đời đời chẳng dứt, được như vậy mới thỏa mãn chí nguyện của tôi.
        Đời Nguyên, năm thứ 27 Canh Dần (1294), ngày Trung Xuân đề tựa.
Cổ Quân Tỳ Kheo Đức Dị soạn.
THÍCH THỊ TẤN DỊCH