般 若 第 二
次 日,韋 使 君 請 益。師 陞
座,告 大 眾 曰:「總 淨 心 念 摩 訶 般 若 波 羅 蜜 多。」復 云:「善 知 識!菩 提 般 若 之 智,世 人 本 自 有 之;只 緣 心 迷,不
能 自 悟,須 假 大 善 知 識,示 導 見 性。當 知 愚 人 智 人,佛 性 本 無 差 別,只 緣 迷 悟 不 同,所 以 有 愚 有 智。吾 今 為
說 摩 訶 般 若 波 羅 蜜 法,使 汝 等 各 得 智 慧。志 心 諦 聽!吾 為 汝 說。
Bát nhã
đệ nhị
Thứ nhật, Vi Sử Quân thỉnh ích. Sư thăng tòa, cáo đại chúng
viết: “tổng tịnh tâm niệm Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.”Phục vân: “thiện tri thức!
Bồ Đề Bát Nhã chi trí, thế nhơn bổn tự hữu chi; chỉ duyên tâm mê, bất năng tự
ngộ, tu giả đại thiện tri thức, thị đạo kiến tánh. Đương tri ngu nhơn trí nhơn,
Phật tánh bổn vô sai biệt, chỉ duyên mê ngộ bất đồng, sở dĩ hữu ngu hữu trí.
Ngô kim vi thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật pháp, sử nhữ đẳng các đắc trí huệ.
Chí tâm đế thính! Ngô vị nhữ thuyết.
Chương 2: Bát Nhã
Ngày
kế, Vi Thứ Sử lại thỉnh Tổ thăng tòa thuyết pháp. Lục Tổ vì tứ chúng mà thăng
tòa, bảo đại chúng rằng: “chư vị hãy tịnh tâm niệm Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.”
Lại nói: “này Thiện tri thức! Trí Bồ Đề Bát Nhã, người đời ai ai cũng vốn tự có
nhưng chỉ do duyên tâm mê mờ nên không tự nhận biết được; nên cần nhờ bậc Thiện
tri thức chỉ dẫn mới thấy được tánh. Phải biết rằng, dầu kẻ ngu hay người trí
thì Phật tánh cũng giống nhau không khác. Nhưng chỉ do tâm mê ngộ không đồng
cho nên mới có kẻ ngu người trí. Lý do đó, nên nay Ta nói pháp Bát Nhã Ba La Mật
Đa để giúp cho các ông đều đắc trí tuệ. Hãy lặng lòng lắng nghe, Ta sẽ vì các
ông mà thuyết.
善 知 識!世 人 終 日 口 念 般 若,不 識 自 性 般 若,猶 如
說 食 不 飽。口 但 說 空,萬 劫
不 得 見 性,終 無 有 益。善 知 識!摩 訶 般 若 波 羅 蜜 是 梵 語,此 言 大
智 慧 到 彼 岸。此 須 心 行,不 在 口 念。口 念 心 不 行,如 幻、如 化、如 露、如 電;口 念 心 行,則 心 口 相 應,本 性 是 佛,離
性 無 別 佛。
Thiện tri thức! thế nhơn chung nhật khẩu niệm Bát Nhã, bất
thức tự tánh Bát NHã, du như thuyết thực bất bão. Khẩu đản thuyết không, vạn kiếp
bất đắc kiên tánh, chung vô hữu ích. Thiện tri thức! Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật thị
phạm ngữ, thử ngôn đại trí tuệ đáo bỉ ngạn. Thử tu tâm hành, bất tại khẩu niệm.
Khẩu niệm tâm bất hành, như huyễn, như hóa, như lộ, như điện; khẩu niệm tâm
hành, tắc tâm khẩu tương ưng, bổn tánh thị Phật, ly tánh vô biệt Phật.
Này
Thiện tri thức! Người đời suốt ngày miệng niệm Bát Nhã mà không biết tự tánh
Bát Nhã, cũng giống như miệng nói ăn uống mà không chịu ăn thì làm sao no bụng
được. Miệng chỉ nói suông tánh không mà tâm không làm theo thì vạn kiếp cũng
không thấy tánh, trọn không ích lợi gì.
Nầy
Thiện tri thức! Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật là tiếng Phạm, xứ này gọi là đại trí tuệ
đến bờ bên kia, chỉ cần tâm hành không cần miệng nói. Miệng niệm mà tâm không
hành thì giống như huyễn, như hóa, như hạt sương, như điện chớp; miệng niệm tâm
hành thì tâm khẩu tương ưng, bổn tánh là Phật, lìa tánh không có Phật.
何 名 摩 訶?摩 訶 是 大。心
量 廣 大,猶 如 虛 空,無 有 邊 畔,亦 無 方 圓 大 小,亦 非 青 黃 赤 白,亦 無 上 下 長 短,亦 無 瞋 無 喜,無 是 無 非,無 善
無 惡,無 有 頭 尾。諸 佛 剎 土,盡 同 虛 空。世 人 妙 性 本 空,無 有 一 法 可 得。自 性 真 空,亦 復 如 是。
Hà danh Ma Ha? Ma ha thị đại. Tâm lượng quảng đại, du như hư
không, vô hữu biên bạn, diệc vô phương viên đại tiểu, diệc phi thanh hoàng xích
bạch, diệc vô thượng hạ trường đoản, diệc vô sân vô hỷ, vô thị vô phi, vô thiện
vô ác, vô hữu đầu vỹ. Chư Phật sát độ, tận đồng hư không. Thế nhơn diệu tánh bổn
không, vô hữu nhứt pháp khả đắc. Tự tánh chơn không, diệc phục như thị.
Sao gọi là Ma Ha? Ma ha gọi là đại.
tâm lượng rộng lớn, giống như hư không, không có bờ mé, cũng không vuông, không
tròn, không lớn không nhỏ, cũng chẳng phải xanh, vàng, đỏ trắng; cũng không
trên dưới, không dưới, không dài không ngắn, cũng không giận dữ, cũng không vui
mừng, không đúng không sai, không thiện không ác, không có đầu, không có đuôi.
10 phương chư Phật hết thảy đều vắng lặng trống không như hư không. Cái diệu
tánh của người đời vốn trống không, chẳng có một pháp nào trong đó mà tìm được.
Cái tự tánh chơn không cũng lại như vậy.
善 知 識!莫 聞 吾 說 空,便 即 著 空。第 一 莫 著 空,若 空 心 靜
坐,即 著 無 記 空。善 知 識!世 界 虛 空,能 含 萬 物 色 像,日 月 星 宿,山 河 大 地,泉 源 谿 澗,草 木 叢 林,惡 人 善 人,惡
法 善 法,天 堂 地 獄,一 切 大 海,須 彌 諸 山,總 在 空 中。世 人 性 空,亦 復 如 是。
Thiện tri thức! Mạc văn ngô thuyết không, tiện tức trước
không. Đệ nhứt mạc trước không, nhược không
tâm tịnh tọa, tức trước vô ký không. Thiện tri thức! thế giới hư không, năng
hàm vạn vật sắc tượng, nhựt nguyệt tinh tú, sơn hà đại địa, tuyền nguyên khê giản,
thảo mộc tùng lâm, ác nhơn thiện nhơn, ác pháp thiện pháp, thiên đường địa ngục,
nhứt thiết đại hải, tu di chi sơn, tổng tại không trung. Thế nhơn tánh không,
diệc phục như thị.
Thiện tri thức, chớ nghe Ta nói
không liền chấp Không.Trước nhất chớ chấp Không, nếu để tâm trống không mà ngồi lặng
yên, tức là chấp Không vô ký. Thiện tri thức, hư không thế giới, bao hàm cả sắc
tướng vạn vật, trời trăng mây gió, trăng sao tinh tú; sông núi ao hồ, cỏ cây
lùm rừng, đất đai biển cả; kẻ ác người hiền, pháp thiện pháp ác, thiên đường địa
ngục, cả thảy biển lớn, các núi Tu Di, tóm lại tất cả đều nằm trong hư không.
Tánh không của thế gian cũng giống như hư không vậy
善 知 識!自 性 能 含 萬 法
是 大,萬 法 在 諸 人 性 中。若 見 一 切 人、惡 之 與 善,盡 皆 不 取 不 捨 亦 不 染 著,心 如 虛 空,名 之 為 大,故 曰 摩 訶。
Thiện tri thức! tự tánh năng hàm vạn pháp thị đại, vạn pháp
tại chư nhơn tánh trung. Nhược kiến nhứt thiết nhơn, ác chi dữ thiện, tận giai
bất thủ bất xả diệc bất nhiễm trước, tâm như hư không, danh chi vi đại, cố viết
Ma Ha.
Thiện tri thức! Tự tánh của
mình bao hàm hết thảy muôn pháp nên gọi là Lớn. Muôn pháp đều ở trong tự tánh của
chúng sanh. Nếu thấy các điều lành điều ác của người, tất cả đều lấy, hay bỏ,
cũng không chấp trước các điều đó, tâm đồng với hư không cho nên gọi là Đại;
cũng còn gọi là Ma Ha.
善 知 識!迷 人 口 說,智 者 心 行。又 有 迷 人,空
心 靜 坐,百 無 所 思,自 稱 為 大。此 一 輩 人,不 可 與 語,為 邪 見 故。善 知 識!心 量 廣 大,遍 周 法 界,用 即 了 了 分 明,應
用 便 知 一 切。一 切 即 一,一 即 一 切。去 來 自 由,心 體 無 滯,即 是 般 若。
Thiện tri thức! mê nhơn khẩu thuyết, trí giả tâm hành. Hựu hữu
mê nhơn, không tâm tịnh tọa, bá vô sở tư, tự xưng vi đại. Thử nhứt bối nhơn, bất
khả dữ ngữ, vi tà kiến cố. Thiện tri thức! tâm lượng quảng đại, biến châu pháp
giới, dụng tức liễu liễu phân minh, ứng dụng tiện tri nhứt thiết. Nhứt thiết tức
nhứt, nhứt tức nhứt thiết. Khứ lai tự do, tâm thể vô trệ, tức thị Bát Nhã.
Thiện tri thức! Người mê
thì dùng miệng nói, kẻ trí thì lấy tâm làm. Lại có người mê thì để tâm không mà
tịnh tọa, trăm điều chẳng nghĩ, tự xưng cho đó là Đại, thật là lầm to; hạng người
mê này, hạng hết thuốc chữa không thể nói gì cho được, vì họ chấp trước rơi vào
tà kiến.
Thiện tri thức! Tâm lượng rộng
lớn, châu biến pháp giới, dụng thì rõ ràng phân minh, ứng dụng liền biết tất cả.
Tất cả là một, một là tất cả. Khứ lai tự tại, tâm thể không bị ngăn ngại tức là
Bát Nhã.
善 知 識!一 切 般 若 智,皆
從 自 性 而 生,不 從 外 入。莫 錯 用 意,名 為 真 性 自 用,一 真 一 切 真。心 量 大 事,不 行 小 道。口 莫 終 日 說 空,心 中 不 修 此 行,恰 似 凡
人 自 稱 國 王,終 不 可 得,非 吾 弟 子。
Thiện tri thức! nhứt thiết bát nhã trí, giai tùng tự tánh
nhi sanh, bất tùng ngoại nhập. Mạc thố dụng ý, danh vi chơn tánh tự dụng, nhứt
chơn nhứt thiết chơn. Tâm lượng đại sự, bất hành tiểu đạo. Khẩu chung nhựt thuyết
không, tâm trung bất tu thử hành, kháp tợ phàm nhơn tự xưng quốc vương, chung bất
khả đắc, phi ngô đệ tử.
Thiện tri thức! Tất cả trí
Bát Nhã đều từ tự tánh sanh, không từ bên ngoài vào. Dụng ý chớ lầm nên gọi là
chân tánh tự dụng. Một chơn thì tất cả cũng chơn. Tâm lượng rộng lớn, không đi
theo đường nhỏ. Miệng suốt ngày cứ nói không mà trong tâm không thực hành quán
chiếu để thấy tánh không, giống như thường dân suốt ngày tự xưng mình là Quốc
Vương thì kết quả có nói cả ngàn năm cũng không thành quốc vương được. Những hạng
người này không xứng đáng là đệ tử của Ta.
「善 知 識!何 名 般 若?般
若 者,唐 言 智 慧 也。一 切 處 所,一 切 時 中,念 念 不 愚,常 行 智 慧,即 是 般 若 行。一 念 愚 即 般 若 絕,一 念 智 即 般 若 生。世 人
愚 迷,不 見 般 若,口 說 般 若,心 中 常 愚。常 自 言:『我 修 般 若。』念 念 說 空,不 識 真 空。般 若 無 形 相,智 慧 心 即 是。若 作
如 是 解,即 名 般 若 智。
Thiện tri thức! hà danh bát nhã? Bát nhã giả, đường ngôn trí
huệ dã. Nhứt thiết xứ sở, nhứt thiết thời trung, niệm niệm bất ngu, thường hành
trí huệ, tức thị bát nhã hạnh. Nhứt niệm ngu tứ bát nhã tuyệt, nhứt niệm trí tức
bát nhã sanh. Thế nhơn ngu mê, bất kiến bát nhã, khẩu thuyết bát nhã, tâm trung
thường ngu. Thường tự ngôn: “ngã tu bát nhã.” Niệm niệm thuyết không, bất thức
chơn không. Bát nhã vô hình tướng, trí tuệ tâm tức thị. Nhược tác như thị giải,
tức danh bát nhã trí.
Thiện
tri thức! Sao gọi là Bát Nhã? Bát Nhã nhà Đường của chúng ta dịch là Trí Tuệ. Tất
cả mọi nơi, mọi lúc, trong mỗi niệm không ngu mà thường thực hành trí huệ tức
là Bát Nhã hạnh. Nhứt niệm mà ngu thì Bát Nhã vắng mặt, nhứt niệm mà trí tức
Bát Nhã sanh. Người đời ngu muội không thấy được Bát Nhã, miệng thì hay nói Bát
Nhã mà trong tâm ngu muội. Miệng mình thì luôn xưng: “ta hay tu Bát Nhã.” Mỗi
niệm mỗi niệm miệng thì luôn nói không mà tâm thì không biết chơn không ra làm
sao. Bát nhã thì không có hình tướng, tâm trí tuệ cũng lại như vậy, nếu hiểu được
như vậy, tức gọi là bát nhã trí.
何 名 波 羅 蜜?此 是 西 國
語,唐 言 到 彼 岸,解 義 離 生 滅。著 境 生 滅 起,如 水 有 波 浪,即 名 為 此 岸;離 境 無 生 滅,如 水 常 通 流,即 名 為 彼
岸,故 號 波 羅 蜜。
Hà danh ba la mật? thử thị tây quốc ngữ, đường ngôn đáo bỉ
ngạn, giải nghĩa ly sanh diệt. Trước cảnh sanh diệt khởi, như thủy hữu ba lãng,
tức danh vi thử ngạn; ly cảnh vô sanh diệt, như thủy thường thông lưu, tức danh
vi bỉ ngạn, cố hiệu ba la mật.
Sao gọi là Ba La Mật? danh
từ này là nói theo tiếng Ấn Độ. Nhà Đường ta dịch là đáo bỉ ngạn, giải nghĩa là
lìa sanh diệt. Chấp trước thì sanh diệt khởi như nước có sóng nổi lên, ở trong
sanh diệt thì gọi là bờ bên này; lìa cảnh
thì không sanh diệt như nước thường chảy suốt không bị lực cản của dòng
chảy, lìa cảnh như vậy gọi là bờ bên kia; cho nên gọi là Ba La Mật.
善 知 識!迷 人 口 念,當 念
之 時,有 妄 有 非。念 念 若 行,是 名 真 性。悟 此 法 者,是 般 若 法;修 此 行 者,是 般 若 行。不 修 即 凡;一 念 修 行,自 身
等 佛。
Thiện tri thức! mê nhơn khẩu niệm, đương niệm chi thời, hữu
vọng hữu phi. Niệm niệm nhược hành, thị danh chơn tánh. Ngộ thử pháp giả, thị
bát nhã pháp; tu thử hành giả, thị bát nhã hành. Bất tu tức phàm; nhứt niệm tu
hành, tự thân đẳng Phật.
Thiện tri thức! Người mê mà
khi nhớ nghĩ thì chính trong lúc đang nhớ nghĩ thì cái nhớ nghĩ đó cũng có vọng
có sai. Nếu mỗi niệm mỗi niệm mà thực hành Bát Nhã thì gọi là niệm chơn tánh.
Người ngộ được pháp chơn tánh thì gọi là Bát Nhã, hành giả mà tu pháp này thì gọi
là hành hạnh Bát Nhã. Người không tu Bát Nhã gọi là phàm phu. Một niệm tu hành
pháp bát nhã thì tự thân bằng với Phật.
善 知 識!凡 夫 即 佛,煩 惱
即 菩 提。前 念 迷 即 凡 夫,後 念 悟 即 佛。前 念 著 境 即 煩 惱,後 念 離 境 即 菩 提。
Thiện tri thức! phàm phu tức Phật, phiền não tức bồ đề. Tiền
niệm mê tức phàm phu, hậu niệm ngộ tức Phật. Tiền niệm trước cảnh tức phiền
não, hậu niệm ly cảnh tức bồ đề.
Thiện tri thức! phàm phu tu
hành bát nhã tức là Phật, phiền não tức là Bồ Đề. Niệm trước mê gọi là phàm
phu, niệm sau ngộ tức là Phật, niệm trước chấp vào cảnh tức là Phiền não. Niệm
sau lìa cảnh tức là Bồ Đề.
「善 知 識!摩 訶 般 若 波
羅 蜜,最 尊 最 上 最 第 一,無 住 無 往 亦 無 來,三 世 諸 佛 從 中 出。當 用 大 智 慧,打 破 五 蘊 煩 惱 塵 勞。如 此 修 行,定
成 佛 道,變 三 毒 為 戒 定 慧。
Thiện tri thức! Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, tối tôn tối thượng
tối đệ nhứt, vô trụ vô vãng diệc vô lai, tam thế chư Phật tùng trung xuất.
Đương dụng đại trí huệ, đã phá ngũ uẩn phiền não trần lao. Như thử tu hành, định
thành Phật đạo, biến tam độc vi giới định tuệ.
Thiện tri thức! Ma Ha Bát
Nhã Ba La Mật, là tối tôn, là trên hết, là đệ nhứt, không đứng không đi cũng
không lại, 3 đời chư Phật cũng từ trong Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật mà xuất thế. Thiện tri thức các vị phải dùng đại
trí huệ để dập tắc trần lao phiền não và ngũ uẩn. Nếu tu hành thường thực hành
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật thì nhất định sẽ thành Phật, biến tam độc tham sân si
thành tam vô lậu học Giới- Định- Tuệ.
善 知 識!我 此 法 門,從 一
般 若 生 八 萬 四 千 智 慧。何 以 故?為 世 人 有 八 萬 四 千 塵 勞。若 無 塵 勞,智 慧 常 現,不 離 自 性。悟 此 法 者,即 是
無 念,無 憶 無 著,不 起 誑 妄。用 自 真 如 性,以 智 慧 觀 照,於 一 切 法 不 取 不 捨,即 是 見 性 成 佛 道。
Thiện tri thức! ngã thử pháp môn, tùng nhứt bát nhã sanh bát
vạn tứ thiên trí huệ. Hà dĩ cố? vi thế nhơn hữu bát vạn tứ thiên trần lao. Nhược
vô trần lao, trí huệ thường hiện, bất ly tự tánh. Ngộ thử pháp giả, tức thị vô
niệm, vô ức vô trước, bất khởi cuồng vọng. Dụng tự
chơn như tánh, dĩ trí huệ quán chiếu, ư nhứt thiết pháp bất thủ bất xả, tức thị
kiến tánh thành Phật đạo.
Thiện tri thức! bản thân của pháp môn này từ một Bát Nhã mà
sanh ra 8 vạn 4 ngàn trí huệ. Vì cớ sao? Vì con người có 8 vạn 4 ngàn trần lao
phiền não. Nếu không có trần lao phiền não thì trí huệ không hiển hiện, không
lìa tự tánh. Hành giả ngộ được pháp môn bát nhã này tức là vô niệm, không ghi
nhớ, không chấp trước, không khởi cuồng vọng; dùng trí huệ chơn như tự tánh của
mình quán chiếu, hết thảy các pháp mà không lấy không bỏ, tức là kiến tánh
thành Phật đạo.
善 知 識!若 欲 入 甚 深 法
界 及 般 若 三 昧 者,須 修 般 若 行,持 誦《金 剛 般 若 經》,即 得 見 性。當 知 此 經 功 德 無 量 無 邊,經 中 分 明 讚 歎,莫
能 具 說。此 法 門 是 最 上 乘,為 大 智人 說,為 上 根 人 說。小 根 小
智 人 聞,心 生 不 信。何 以 故?譬 如 大 龍 下 雨 於 閻 浮 提,城 邑 聚
落,悉 皆 漂 流 如 漂 棗 葉。若 雨 大 海,不 增 不 減。若 大 乘 人,若 最 上 乘 人,聞 說 《金 剛 經》,心 開 悟 解。
Thiện tri thức! Nhược dục nhập thậm thâm pháp giới cập bát
nhã tam muội giả, tu tu bát nhã hành, trì tụng “kim cang bát nhã kinh”, tức đắc
kiến tánh. Đương tri thử kinh công đức vô lượng vô biên, kinh trung phân minh
tán thán, mạc năng cụ thuyết. Thử pháp môn thị tối thượng thừa, vi đại trí nhơn
thuyết, vi thượng căn nhơn thuyết. Tiểu căn tiếu trí nhơn văn, tâm sanh bất
tín. Hà dĩ cố? thí như đại long hạ vũ ư Diêm Phù Đề, thành ấp tụ lạc, tất giai
phiêu lưu như phiêu táo diệp. Nhược vũ đại hải, bất tăng bất giảm. Nhược đại thừa
nhơn, nhược tối thượng thừa nhơn, văn thuyết “kim cang kinh”, tâm khai ngộ giải.
Thiện tri thức! muốn đi vào pháp
giới thâm sâu và Bát Nhã Tam Muội thì phải tu hạnh bát nhã. Trì tụng kinh Kim
Cang thì sẽ thấy được tánh. Phải biết rằng cái công đức của kinh Kim Cang thì
vô lượng vô biên mà trong kinh đã tán thán, nhiều không thể kể hết. Pháp môn
này là Tối Thượng Thừa vì người đại trí mà thuyết, vì người thượng căn mà nói
chứ không phải thuyết cho hàng tiểu căn tiểu trí. Cho nên hàng tiểu căn tiểu
trí khi nghe kinh Kim Cang thì sanh tâm bất tín.
Vì cớ sao? Giống như một trận
mưa lớn trên đại địa, thành ấp xóm làng tất cả đều bị nước cuốn trôi như cuốn
trôi cỏ rát. Nếu mưa lớn trên đại dương
thì nước biển vẫn không tăng không giảm. Như người căn trí Đại thừa, căn trí tối
thượng thừa khi nghe kinh Kim Cang thì tâm liền khai ngộ.
故 知 本 性 自 有 般 若 之
智,自 用 智 慧,常 觀 照 故,不 假 文 字。譬 如 雨 水,不 從 天 有,元 是 龍 能 興 致,令 一 切 眾 生、一 切 草 木、有 情 無 情,悉
皆 蒙 潤。百 川 眾 流,卻 入 大 海,合 為 一 體。眾 生 本 性 般 若 之 智,亦 復 如 是。善 知 識!小 根 之 人,聞 此 頓 教,猶 如
草 木 根 性 小 者,若 被 大 雨,悉 皆 自 倒,不 能 增 長。小 根 之 人,亦 復 如 是。
Cố tri bổn tánh tự hữu bát nhã chi trí, tự dụng trí huệ, thường
quán chiếu cố, bất giả văn tự. Thí như vũ thủy, bất tùng thiên hữu, nguyên thị
long năng hưng trí, linh nhứt thiết chúng sanh, nhứt thiết thảo mộc, hữu tình vô
tình, tất giai mông nhuận. Bá xuyên chúng lưu, khước nhập đại hải, hợp vi nhứt
thể. Chúng sanh bổ tánh bát nhã chi trí, diệc phục như thị. Thiện tri thức! tiểu
căn chi nhơn, văn thử đốn giáo, du như thảo mộc căn tánh tiểu giả, nhược bị đại
vũ tất giai tự đảo, bất năng tăng trưởng. Tiểu căn chi nhơn, diệc phục như thị.
Cho
nên biết tự tánh vốn có cái trí bát nhã, trí huệ tự tánh thường quán chiếu nên
không nhờ văn tự. Giống như nước mưa chẳng phải do trời mưa mà do khí trời tạo
nên, khiến cho tất cả chúng sanh, cây cối, hữu tình vô tình đều được thấm nhuần
trận mưa đó. Trăm sông đều chảy về biển lớn hợp thành một thể nước biển. Cái
trí tự tánh của tất cả chúng sanh cũng lại như vậy.
Thiện
tri thức! hàng tiểu căn khi nghe pháp đốn giáo này cũng như cây cỏ mà gặp mưa
to tất cả đều bị gãy đổ không sanh trưởng được. Hạng người tiểu căn cũng lại
như vậy.
元 有 般 若 之 智,與 大 智
人 更 無 差 別,因 何 聞 法 不 自 開 悟?緣 邪 見 障 重、煩 惱 根 深。猶 如 大 雲 覆 蓋 於 日,不 得 風 吹,日 光 不 現。般 若
之 智 亦 無 大 小,為 一 切 眾 生 自 心 迷 悟 不 同,迷 心 外 見,修 行 覓 佛;未 悟 自 性,即 是 小 根。
Nguyên hữu bát nhã chi trí, dữ đại trí nhơn cánh vô sai biệt,
nhân hà văn pháp bất tự khai ngộ? duyên tà kiến chướng trọng, phiền não căn
thâm. Du như đại vân phú cái ư nhật, bất đắc phong suy, nhật quang bất hiện.
Bát nhã chi trí diệc vô đại tiểu, vi nhứt thiết chúng sanh tự tâm mê ngộ bất đồng,
mê tâm ngoại kiến, tu hành mích Phật; vị ngộ tự tánh, tức thị tiểu căn.
Nguyên hàng tiểu căn cũng
có trí bát nhã giống như người đại căn đại trí không khác. Nhưng tại sao khi họ
nghe pháp không tự khai ngộ? Đó là do duyên nơi tà kiến quá nặng nề, phiền não
quá sâu dày giống như mây đen che kín mặt trời; gió không thổi mây không bay, mặt
trời không xuất hiện. Trí bát nhã thì không lớn không nhỏ, do tâm mê ngộ của tất
cả chúng sanh không đồng, tâm mê nên tìm Phật bên ngoài tâm nên không thấy được
tánh, tức là hàng tiểu căn.
若 開 悟 頓 教,不 能 外 修,但
於 自 心 常 起 正 見,煩 惱 塵 勞 常 不 能 染,即 是 見 性。善 知 識!內 外 不 住,去 來 自 由,能 除 執 心,通 達 無 礙。能 修 此 行,與 般 若 經
本 無 差 別。 「善 知 識!一 切 修 多 羅 及 諸 文 字,大 小 二 乘,十 二 部 經,皆 因 人 置。因 智 慧 性,方 能 建 立。若 無 世
人,一 切 萬 法 本 自 不 有,故 知 萬 法 本 自 人 興。一 切 經 書,因 人 說 有。緣 其 人 中 有 愚 有 智,愚 為 小 人,智 為 大 人。愚
者 問 於 智 人,智 者 與 愚 人 說 法。愚 人
忽 然 悟 解 心 開,即 與 智 人 無 別。
Nhược khai ngộ đốn giáo, bất năng ngoại tu, đản ư tự tâm thường
khởi chánh kiến, phiền não trần lao thường bất năng nhiễm, tức thị kiến tánh.
Thiện tri thức! nội ngoại bất trụ, khứ lai tự do, năng trừ chấp tâm, thông đạt
vô ngại. Năng tu thử hành, dữ bát nhã kinh bổn vô sai biệt. Thiện tri thức! nhứt
thiết tu đa la cập chư văn tự, đại tiểu nhị thừa, thập nhị bộ kinh, giai nhân
nhơn trí. Nhân trí huệ tánh, phương năng kiến lập. Nhược vô thế nhơn, nhứt thiết
vạn pháp bổn tự bất hữu, cố tri vạn pháp bổn tự nhơn hưng. Nhứt thiết kinh thư,
nhân nhơn thuyết hữu. Duyên kỳ nhơn trung hữu ngu hữu trí, ngu vi tiểu nhơn,
trí vi đại nhơn. Ngu giả vấn ư trí nhơn, trí giã dữ ngu nhơn thuyết pháp. Ngu
nhơn hốt nhiên ngộ giải tâm khai, tức dữ trí nhơn vô biệt.
Như khai ngộ đốn giáo không
chấp hình tướng bên ngoài chỉ ở tự tâm bên trong thường khởi chánh kiến, không
bị nhiễm ô phiền não trần lao, đó tức là kiến tánh.
Thiện tri thức! trong ngoài
không trụ, khứ lai tự do, nếu trừ được tâm chấp trước, thông đạt vô ngại. Nếu
tu được hạnh này thì cùng với kinh Bát Nhã đâu có gì khác.
Thiện tri thức! Tất cả kinh điển và văn tự, đại thừa tiểu thừa,
nhị thừa, 12 bộ kinh đều do bậc trí nói ra. Nhân tánh trí huệ mới kiến lập các
pháp. Nếu không có con người thì vạn pháp vốn chẳng tự có. Cho nên biết tất cả
vạn pháp vốn do tâm người kiến tạo. Tất cả kinh sách do con người nói ra. Trong
nhơn sanh thì có kẻ trí người ngu, ngu là tiểu nhơn trí là đại nhơn. Kẻ ngu hỏi
pháp người trí, người trí thuyết pháp cho người ngu, người ngu nghe pháp đốn ngộ
tự tâm thì chẳng khác với người trí.
善 知 識!不 悟 即 佛 是 眾
生,一 念 悟 時 眾 生 是 佛,故 知 萬 法 盡 在 自 心。何 不 從 自 心 中,頓 見 真 如 本 性?《菩 薩 戒 經》云:『我 本 元 自 性
清 淨,若 識 自 心 見 性,皆 成 佛 道。』《淨 名 經》云:『即 時 豁 然,還 得 本 心。』
Thiện tri thức! bất ngộ tức Phật thị chúng sanh, nhứt niệm
ngộ thời chúng sanh thị Phật, cố tri vạn pháp tận tại tự tâm. Hà bất tùng tự
tâm trung, đốn kiến chơn như bổn tánh? “Bồ đề giới kinh” vân: “ngã bổn nguyên tự
tánh thanh tịnh, nhược thức tự tâm kiến tánh, giai thành Phật đạo.” “Tịnh Danh
kinh” vân: “tức thời hoát nhiên, hoàn đắc bổn tâm.”
Thiện tri thức! khi chưa ngộ
thì Phật tức là chúng sanh, một niệm mà ngộ thì chúng sanh là Phật. Nên biết vạn
pháp đều ở nơi tự tâm. Sao không từ trong tự tâm đốn thấy chơn như bản tánh.
Kinh Bồ Tát Giới nói [kinh Phạm Võng]: “bổn nguyên tự tánh của ta vốn thanh tịnh,
nếu biết được tự tâm kiến tánh tức thành Phật đạo.” Kinh Tịnh Danh nói:[kinh
Duy Ma Cật] “ngay lúc đó hoát nhiên đại ngộ, liền biết bổn tâm.”
善 知 識!我 於 忍 和 尚 處,一
聞 言 下 便 悟,頓 見 真 如 本 性。是 以 將 此 教 法 流 行,令 學 道 者 頓 悟 菩 提。各 自 觀 心,自 見 本 性。若 自 不 悟,須
覓 大 善 知 識、解 最 上 乘 法 者,直 示 正 路。是 善 知 識 有 大 因 緣,所
謂 化 導 令 得 見 性。一 切 善 法,因 善 知 識 能 發 起 故。三 世 諸 佛、十 二 部 經,在 人 性 中 本 自 具 有。不 能 自 悟,須
求 善 知 識 指 示 方 見;若 自 悟 者,不 假 外 求。若 一 向
執 謂 須 他 善 知 識 方 得 解 脫 者,無 有
是 處。何 以 故?自 心 內 有 知 識 自 悟。若 起 邪 迷、妄 念 顛 倒,外 善 知 識 雖 有 教 授,救
不 可 得。
Thiện tri thức! ngã ư nhẫn hòa thượng xứ, nhứt văn ngôn hạ
tiện ngộ, đốn kiến chơn như bổn tánh. Thị dĩ tương thử giáo pháp lưu hành, linh
học đạo giả đốn ngộ bồ đề. Các tự quán tâm, tự kiến bổn tánh. Nhược tự bất ngộ,
tu mích đại thiện tri thức, giải tối thượng thừa pháp giả, trực thị chánh lộ.
Thị thiện tri thức hữu đại nhân duyên, sở vị hóa đạo linh đắc kiến tánh. Nhứt
thiết thiện pháp, nhân thiện tri thức năng phát khởi cố. Tam thế chư Phật, thập
nhị bộ kinh, tại nhơn tánh trung bổn tự cụ hữu. Bất năng tự ngộ, tu cầu thiện
tri thức chỉ thị phương kiến; nhược tự ngộ giả, bất giả ngoại cầu. Nhược nhứt
hướng chấp vị tu tha thiện tri thức phương đắc giải thoát giả, vô hữu thị xứ.
Hà dĩ cố? tự tâm nội hữu tri thức tự ngộ. Nhược khởi tà mê, vọng niệm điên đảo,
ngoai thiện tri thức tuy hữu giáo thọ, cứu bất khả đắc.
Thiện
tri thức! xưa ta ở nơi Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn vừa nghe câu nói liền ngộ, đốn thấy
chơn như bản tánh, đem cái đốn thấy chơn như bản tánh mà hoằng truyền giáo pháp
khiến cho người học đạo đốn ngộ bồ đề, mỗi người tự thấy tự tâm, tự thấy bản
tánh của mình. Nếu không ngộ được tự tâm thì phải đi tìm người thiện trí thức
đã khai ngộ pháp tối thượng thừa để họ chỉ ngay cho mình thấy được chánh pháp
trung đạo.
Vì vị thiện tri thức có nhân duyên rất
lớn giáo hóa dẫn dắt làm cho người học đạo thấy được tánh. Tất cả các thiện
pháp đều do thiện tri thức kiến lập mà có. 3 đời chư Phật 12 bộ kinh, ở trong tự
tánh vốn có đầy đủ không thiếu. Vì tự chính mình chưa tự ngộ được tự tánh cho
nên phải cần cầu thiện tri thức chỉ bày mới ngộ được; nếu người tự ngộ được tự
tánh thì không cần đến người khác. Nếu cố chấp luôn luôn phải có thiện tri thức
chỉ bày mới mong giải thoát thì không bao giờ được. Vì cớ sao? Vì trong tự tâm
sẳn có tri thức tự ngộ. Nếu khởi tà kiến mê chấp vọng tưởng điên đảo, thì dẫu
cho có gặp thiện tri thức dạy bảo cũng không thể cứu giúp được.
若 起 正 真 般 若 觀 照,一
剎 那 間,妄 念 俱 滅。若 識 自 性,一 悟 即 至 佛 地。善 知 識!智 慧 觀 照,內 外 明 徹,識 自 本 心。若 識 本 心,即 本 解 脫。若 得 解
脫,即 是 般 若 三 昧,即 是 無 念。
Nhược khởi chánh chơn bát nhã quán chiếu, nhứt sát na gian,
vọng niệm câu diệt. Nhược thức tự tánh, nhựt ngộ tức Phật địa. Thiện tri thức!
trí huệ quán chiếu, nội ngoại minh triệt, thức tự bổn tâm. Nhược thức bổn tâm,
tức bổn giải thoát. Nhược đắc giải thoát, tức thị bát nhã tam muội, tức thị vô
niệm.
Như khởi chánh nhơn quán chiếu bát
nhã, chỉ trong tích tắc vọng tưởng đều diệt. Nếu nhận biết được tự tánh của
mình thì chỉ một niệm ngộ tức là đồng lên cõi Phật.
Thiện tri thức! trí huệ quán chiếu,
trong ngoài đều thấu triệt rõ ràng thì nhận biết được bổn tâm của mình. Nếu nhận
biết được bổn tâm tức là giải thoát. Nếu được giải thoát tức là bát nhã tam muội,
tức là vô niệm.
何 名 無 念?若 見 一 切 法,心
不 染 著,是 為 無 念。用 即 遍 一 切 處,亦 不 著 一 切 處。但 淨 本 心,使 六 識 出 六 門,於 六 塵 中 無 染 無 雜,來 去 自
由,通 用 無 滯,即 是 般 若 三 昧、自 在 解 脫,名 無 念
行。
Hà danh vô niệm? nhược kiến nhứt thiết pháp, tâm bất nhiễm
trước, thị vi vô niệm. Dụng tức biến nhứt thiết xứ, diệc bất trước nhứt thiết xứ.
Đản tịnh bổn tâm, sử lục thức xuất lục môn, ư lục trần trung vô nhiễm vô tạp,
lai khứ tự do, thông dụng vô trệ, tức thị bát nhã tam muội, tự tại giải thoát,
danh vô niệm hành.
Vì sao gọi là vô niệm? như thấy
tất cả các pháp mà tâm không nhiễm ô chấp trước, tức là vô niệm, khi ứng dụng
thì cùng khắp tất cả chỗ mà cũng không chấp trước các chỗ. Giữ bổ tâm thanh tịnh, khiến 6 thức ra ngoài
6 cửa, đối với 6 trần mà tâm không nhiễm
không chấp trước, không lộn xộn, khứ lai tự tại, thông dụng không ngăn ngại, tức
là bát nhã tam muội, tự tại giải thoát, gọi là hạnh vô niệm.
若 百 物 不 思,當 令 念 絕,即 是 法 縛,即 名 邊 見。善 知 識!悟 無 念 法 者,萬 法 盡 通;悟 無 念 法 者,見 諸 佛 境 界;悟 無 念 法 者,至 佛 地 位。 「善 知
識!後 代 得 吾 法 者,將 此 頓 教 法 門,於 同 見 同 行,發 願 受 持。如 事 佛 故,終 身 而 不 退 者,定 入 聖 位。然 須 傳 授
從 上 以 來 默 傳 分 付,不 得 匿 其 正 法。
Nhược bá vật bất tư, đương linh niệm tuyệt, tức thị pháp phược,
tức danh biên kiến. Thiện tri thức! ngộ vô niệm pháp giả, vạn pháp tận thông;
ngộ vô niệm pháp giả, kiến chư Phật cảnh giới; ngộ vô niệm pháp giả, chí Phật địa
vị. Thiện tri thức! hậu đại đắc ngộ pháp giả, tương thử đốn giáo pháp môn, ư đồng
kiến đồng hành, phát nguyện thọ trì. Như sự Phật cố, chung nhật nhi bất thối giả,
định nhập thánh vị. Nhiên tu truyền thọ tùng thượng dĩ lai mặc truyền phân phó,
bất đắc nặc kỳ chánh pháp.
Như đối với mọi vật tâm
không nghĩ đến, khiến cho nhớ nghĩ dứt sạch, tức là pháp bị trói buộc hay còn gọi
là biên kiến.
Thiện tri thức! Ngộ được
pháp vô niệm thì thông suốt vạn pháp. Ngộ được pháp vô niệm thì thấy được cảnh
giới của chư Phật. Ngộ được pháp vô niệm thì đến được địa vị của Phật.
Thiện tri thức! Đời sau người
nào gặp được pháp môn đốn giáo của ta, đem pháp môn đốn giáo này truyền trao
cho các người đồng kiến đồng hành, phát nguyện thọ trì thì cũng như thờ Phật,
làm được như vậy trọn đời không thối chí thì chắc chắn vị đó vào được ngôi
Thánh Vị. Nhưng cách truyền thọ thì phải theo ý chỉ của Tổ Sư từ xưa tới nay, mặc
truyền phú chúc cho rõ ràng không được ém dấu cái chánh pháp của thánh nhân đời
trước truyền lại.
若 不 同 見 同 行,在 別 法
中,不 得 傳 付。損 彼 前 人,究 竟 無 益。恐 愚 人 不 解,謗 此 法 門,百 劫 千 生,斷 佛 種 性。善 知 識!吾 有 一 無 相 頌,各
須 誦 取,在 家 出 家,但 依 此 修。若 不 自 修,惟 記 吾 言,亦 無 有 益。聽 吾 頌 曰:
Nhược bất đồng kiến đồng hành, tại biệt pháp trung, bất đắc
truyền phó. Tổn bỉ tiền nhơn, cứu cánh vô ích. Khủng ngu nhơn bất giải, báng thử
pháp môn, bá khiếp thiên sanh, đoạn Phật chủng tánh. Thiện tri thức! Ngộ hữu nhứt
vô tướng tụng, các tu tụng thủ, tại gia xuất gia, đản y thử tu. Nhược bất tự
tu, duy ký ngô ngôn, diệc vô hữu ích. Thính ngô tụng viết:
Còn
hạng người không đồng kiến đồng hành, hoặc tu trong các pháp môn khác thì không
truyền thọ vì không lợi cho người đó. Rốt
cuộc không đem lại lợi ích cho cả hai. Sợ có người ngu không hiểu, rồi đem tâm
hủy báng pháp môn đốn giáo này mà đoạn dứt hạt giống Phật tánh của họ trong
trăm ngàn vạn kiếp.
Thiện
tri thức! Ta có một bài kệ tụng vô tướng, các ông cần phải tụng đọc, tại gia xuất
gia y vào kệ này mà tu hành. Nếu tự mình không tu mà chỉ ghi nhớ lời của ta nói
thì đâu có lợi ích gì. Hãy nghe ta tụng:
「說 通 及 心 通, 如 日 處 虛 空,
唯 傳 見 性 法, 出 世 破
邪 宗。
法 即 無 頓 漸, 迷 悟 有遲 疾,
只 此 見 性 門, 愚 人 不可 悉。
說 即 雖 萬 般, 合 理 還 歸 一,
煩 惱 闇 宅 中, 常 須 生 慧 日。
邪 來 煩 惱 至, 正 來 煩 惱 除,
邪 正 俱 不 用, 清 淨 至 無 餘。
菩 提 本 自 性, 起 心 即 是 妄,
淨 心 在 妄 中, 但 正 無 三 障。
世 人 若 修 道, 一 切 盡 不 妨,
常 自 見 己 過, 與 道 即 相 當。
色 類 自 有 道, 各 不 相 妨 惱,
離 道 別 覓 道, 終 身 不 見 道。
波 波 度 一 生, 到 頭 還 自 懊,
欲 得 見 真 道, 行 正 即 是 道。
自 若 無 道 心, 闇 行 不 見 道,
若 真 修 道 人, 不 見 世 間 過。
若 見 他 人 非, 自 非 卻 是 左,
他 非 我 不 非, 我 非 自 有 過。
但 自 卻 非 心, 打 除 煩 惱 破,
憎 愛 不 關 心, 長 伸 兩 腳 臥。
欲 擬 化 他 人, 自 須 有 方 便,
勿 令 彼 有 疑, 即 是 自 性 現。
佛 法 在 世 間, 不 離 世 間 覺,
離 世 覓 菩 提, 恰 如 求 兔 角。
正 見 名 出 世, 邪 見 是 世 間,
邪 正 盡 打 卻, 菩 提 性 宛 然。
此 頌 是 頓 教, 亦 名 大 法 船,
迷 聞 經 累 劫, 悟 則 剎 那 間。」
師 復 曰:「今 於 大 梵 寺 說 此 頓 教,
普 願 法 界 眾 生,言 下 見
性 成 佛。」 時 韋 使 君 與 官 僚 道 俗,聞 師 所 說,無 不 省
悟。一 時 作 禮,皆 歎:「善 哉!何 期 嶺 南 有 佛 出 世!」
Thuyết thông cập
tâm thông,
Như nhật xử hư
không,
Duy truyền kiến tánh pháp,
Xuất thế phá tà tông.
Pháp tức vô đốn
tiệm,
Mê ngộ hữu trì tật,
Chỉ thử kiến tánh môn,
Ngu nhân bất khả tất.
Thuyết tức tuy vạn
ban,
Hợp lý hoàn qui nhất,
Phiền não ám trạch trung,
Thường tu sanh tuệ nhật.
Tà lai phiền não
chí,
Chánh lai phiền não trừ,
Tà chánh câu bất dụng,
Thanh tịnh chí vô dư.
Bồ-đề bản Tự tánh,
Khởi tâm tức thị vọng,
Tịnh tâm tại vọng trung,
Đãn chánh vô tam chướng.
Thế nhân nhược tu
đạo,
Nhất thiết tận bất phương,
Thường tự kiến kỷ quá,
Dữ đạo tức tương đương
Sắc loại tự hữu
đạo,
Các bất tương phương não,
Ly đạo biệt mích đạo,
Chung thân bất kiến đạo.
Ba ba độ nhất sanh,
Đáo đầu hoàn tự áo,
Dục đắc kiến chân đạo,
Hạnh chánh tức thị đạo.
Tự nhược vô đạo
tâm,
Ám hạnh bất kiến đạo,
Nhược chân tu đạo nhân,
Bất kiến thế gian quá.
Nhược kiến tha nhân
phi,
Tự phi khước thị tả,
Tha phi ngã bất phi,
Ngã phi tự hữu quá.
Đãn tự khước phi
tâm,
Đả trừ phiền não phá,
Tắng ái bất quan tâm,
Trường thân lưỡng cước ngọa.
Dục nghĩ hóa tha
nhân,
Tự tu hữu phương tiện,
Vật linh bỉ hữu nghi,
Tức thị Tự tánh hiện.
Phật pháp tại thế
gian,
Bất ly thế gian giác,
Ly thế mích Bồ-đề,
Kháp như cầu thố giác.
Chánh kiến danh
xuất thế,
Tà kiến thị thế gian,
Tà chánh tận đả khước,
Bồ-đề tánh uyển nhiên.
Thử tụng thị đốn
giáo,
Diệc danh đại pháp thuyền,
Mê văn kinh lụy kiếp,
Ngộ tắc sát-na gian.
Sư phục viết:
kim ư Đại Phạm tự thuyết thử đốn giáo, phổ nguyện pháp giới chúng sanh, ngôn hạ
kiến tánh thành Phật. Thời vi sử quân dữ quan liêu đạo tục, văn sư sở thuyết,
vô bất tỉnh ngộ. Nhứt thời tác lễ, giai thán: thiện tai! Hà kỳ lảnh nam hữu
Phật xuất thế.
Thuyết thông tâm cũng thông
Như mặt nhật trên không
Chỉ truyền pháp kiến tánh
Ra đời trừ tà tông
Pháp vốn chẳng đốn tiệm
Mê ngộ có lâu mau
Pháp môn kiến tánh này
Người ngu không thể biết
Nói pháp tuy ngàn lối
Chơn lý chỉ có một
Nhà phiền não tối đen
Cần mặt trời tuệ sáng
Lòng tà phiền não dậy
Tâm chánh trừ phiền não,
Chánh tà đều không dùng
Thanh tịnh chứng vô dư
Bồ đề là tự tánh
Móng tâm là vọng động
Tâm tịnh trong cái động
Tâm chánh không 3 chướng
Người đời nếu tu đạo
Muôn vật không tổn thương
Thường tự thấy lỗi mình
Là tương đương với đạo
Muôn loài tự có đạo
Chớ giết hại lẫn nhau
Lìa đạo mà tìm đạo
Cả đời không thấy đạo
Bôn ba qua một đời
Rốt cuộc phiền não còn
Muốn thấy được chơn đạo
Hạnh chánh tức là đạo
Đạo tâm nếu không có
Mờ ám không
thấy đạo
Chân tu tìm mối đạo
Không thấy lỗi thế gian.
Nếu thấy lỗi của người
Đừng để thành lỗi mình
Người lỗi ta không lỗi
Ta lỗi nếu có lỗi
Tâm chừa bỏ chê bai
Phiền não phá cho hết
Thương ghét không quan tâm
Duỗi thẳng chân mà nằm
Muốn hóa độ người khác
Phương tiện phải đầy đủ
Chớ khiến người nghi hoặc
Tự tánh họ mới hiện
Phật pháp tại thế gian
Không lìa thế gian giác
Bỏ đời tìm bồ đề
Như lông rùa sừng thỏ
Chánh kiến là xuất thế
Tà kiến là thế gian
Chánh tà đều phá sạch
Bồ đề hiển hiện liền
Tụng này là đốn giáo
Cũng gọi đại pháp thuyền
Mê nghe kinh lụy kiếp
Ngộ thấy tánh liền liền
Lục Tổ lại bảo: “nay tại chùa Đại Phạm, ta tự nói pháp đốn
giáo, phổ nguyện pháp giới chúng sanh, vừa nghe pháp rồi kiến tánh thành Phật.
Lúc ấy, Vi Thứ Sử cùng với các quan
viên, tăng ni đạo tục, hết thảy nghe Lục Tổ thuyết pháp rồi, cả thảy đều giác
ngộ. Đồng thời làm lễ và đều khen rằng: lành thay! Nào ngờ xứ Lảnh Nam có
Phật ra đời.