疑 問 第 三
一 日,韋 刺 史 為 師 設 大
會 齋。齋 訖,
刺 史 請 師 陞 座,同 官 僚 士 庶 肅 容 再 拜,問 曰:「弟 子 聞 和 尚 說 法,實 不 可 思 議。今 有 少 疑,願 大 慈 悲,特 為 解 說。」師 曰:「有 疑 即 問,吾 當 為 說。」韋 公 曰:「和 尚 所 說,可 不 是 達 磨 大 師 宗 旨 乎?」
刺 史 請 師 陞 座,同 官 僚 士 庶 肅 容 再 拜,問 曰:「弟 子 聞 和 尚 說 法,實 不 可 思 議。今 有 少 疑,願 大 慈 悲,特 為 解 說。」師 曰:「有 疑 即 問,吾 當 為 說。」韋 公 曰:「和 尚 所 說,可 不 是 達 磨 大 師 宗 旨 乎?」
Nghi vấn đệ tam
Nhất nhật, Vi Thứ Sử vi sư thiết đại hội trai. Trai ngật, Thứ
Sử thỉnh sư thăng tòa, đồng quan liêu sĩ thứ túc dung tái bái, vấn viết: “đệ tử
văn hòa thượng thuyết pháp, thật bất khả tư nghị. Kim hữu thiểu nghi, nguyện đại
từ bi, đặc vi giải thuyết. Sư viết: “hữu nghi tức vấn, ngô đương vi thuyết.” Vi
công viết: “hòa thượng sở thuyết, khả bất thị Đạt Ma đại sư tông chỉ hồ?”
Chương thứ 3 Nghi Vấn
Một ngày nọ, Vi Thứ Sử thiết
trai đại hội cúng dường. Khi thọ trai xong, Thứ Sử thỉnh sư thăng tòa, Thứ Sử
cùng với quan viên học giả nho gia đồng làm lễ và xin hỏi: “đệ tử nghe hòa thượng
thuyết pháp, thật không thể nghĩ bàn. Nay có chút nghi, xin hòa thượng đại từ
bi giảng giải cho.
Sư dạy: có nghi cứ hỏi, Ta sẽ
nói cho hiểu.
Vi Công thưa: “những điều hòa
thường thuyết ra, có phải là tông chỉ của Tổ Đạt Ma đại sư không?”
師 曰:「是。」公 曰:「弟 子 聞:達 磨 初 化 梁 武 帝,帝 問
云:『朕 一 生 造 寺 度 僧、布 施 設 齋,有 何 功 德?』達 磨 言:『實 無 功 德。』弟 子 未 達 此 理,願 和 尚 為 說。」師 曰:「實 無 功 德,勿 疑
先 聖 之 言。武 帝 心 邪,不 知 正 法。造 寺 度 僧、布 施 設 齋,名 為 求 福,不 可 將 福 便 為 功 德。功 德 在 法 身 中,不 在
修 福。」
Sư viết: “thị” Công viết: “đệ tử văn: Đạt Ma sơ hóa Lương Võ
Đế, Đế vấn viết: “Trẫm nhất sanh tạo tự độ tăng, bố thí thiết trai, hữu hà công
đức?” Đạt Ma ngôn: “thiệt vô công đức”. Đệ tử vị Đạt Ma thử lý, nguyện hòa thượng
vi thuyết. Sư viêt: “thiệt vô công đức, vật nghi tiên thánh chi ngôn. Võ Đế tâm
tà, bất tri chánh pháp. Tạo tự độ tăng, bố thí thiết trai, danh vi cầu phước, bất
khả tướng phước tiện vi công đức. Công đức tại pháp thân trung, bất tại tu phước.”
Sư nói: Phải.Vi thứ Sử thưa:
Đệ tử nghe: xưa Đạt Ma sơ Tổ ban đầu hóa
độ Lương Võ Đế, vua hỏi: “Trẫm một đời lập chùa, giúp tăng độ chúng bố thí
thiết lễ trai hội, có công đức gì không?” Đạt Ma dạy: “Thật không có công đức
gì cả”. Đệ tử chưa hiểu lý ấy, nguyện xin Hòa thượng giảng cho.
Sư dạy: Thật không công đức, chớ nghi lời
của Thánh nhân xưa. Võ Đế tâm tà, không biết chánh pháp, tạo chùa, độ Tăng, bố
thí, thiết lập trai đàn là chỉ cầu phước, không thể đem phước tướng mà bảo là
công đức. Công đức ở ngay nơi Pháp thân, không do tu phước.
師 又 曰:「見 性 是 功,平
等 是 德。念 念 無 滯,常 見 本 性,真 實 妙 用,名 為 功 德。內 心 謙 下 是 功,外 行 於 禮 是 德。自 性 建 立 萬 法 是 功,心 體
離 念 是 德。不 離 自 性 是 功,應 用 無 染 是 德。若 覓 功 德 法 身,但 依 此 作,是 真 功 德。若 修 功 德 之 人,心 即 不 輕,常
行 普 敬。心 常 輕 人,吾 我 不 斷,即 自 無 功;自 性 虛 妄 不 實,即 自 無 德。為 吾 我 自 大,常 輕 一 切 故。善 知 識!念 念
無 間 是 功,心 行 平 直 是 德。自 修 性 是 功,自 修 身 是 德。
Sư hựu viết: “kiến tánh thị công, bình đẳng thị phước. niệm
niệm vô trệ, thường kiến bổn tánh, chơn thật diệu dụng, danh vi công đức. Nội
tâm khiêm hạ thị công, ngoại hành ư lễ thị đức. Tự tánh kiến lập vạn pháp thị
công, tâm lễ ly niệm thị đức. Bất ly tự tánh thị công, ứng dụng vô nhiễm thị đức.
Nhược mích công đức pháp thân, đản y thử tác, thị chơn công đức. Nhược tu công
đức chi nhơn, tâm tức bất khinh, thường hành phổ kính. Tâm thường khinh nhơn,
ngô ngã bất đoạn. Tức thị vô công, tự tánh hư vọng bất thật, tức thị vô đức. Vi
ngô ngã tự đại, thường khinh nhứt thiết cố. Thiện tri thức! niệm niệm vô gian
thị công, tâm hành bình trực thị đức. Tự tu tánh thị công, tự tu thân thị đức.
Sư dạy:Kiến tánh là công, bình đẳng là
đức. Trong mỗi niệm không chướng ngại, thường thấy diệu dụng chơn thật của bản
tánh gọi là công đức. Trong tâm khiêm hạ là công, ngoài thực hành lễ kính là
đức. Tự tánh kiến lập vạn pháp là công, tâm thể ly niệm là đức. Không lìa tự
tánh là công, ứng dụng không bị ô nhiễm là đức. Nếu tin Pháp thân công đức thì
chỉ theo đây mà làm, ấy là công đức chơn thật. Người tu công đức thì không có
tâm khinh rẻ, thường kính trọng tất cả. Nếu tâm thường khinh người, tánh cống
cao ngã mạn không đoạn, là vô công. Tự tánh dối trá không chơn thật, là vô đức. Thiện tri thức! Niệm niệm không gián đoạn
là công, tâm thực hành tánh bình đẳng là đức. Tự tu tánh là công, tự tu thân là
đức.
善 知 識!功 德 須 自 性 內 見,不 是 布 施 供 養 之 所 求 也。是 以 福 德 與 功 德 別。武 帝 不 識 真 理,非 我 祖 師 有 過。」刺 史 又 問 曰:「弟 子 常 見 僧 俗 念 阿
彌 陀 佛,願 生 西 方。請 和 尚 說,得 生 彼 否?願 為 破 疑。」師 言:「使 君 善 聽,惠 能 與 說。世 尊 在 舍 衛 城 中,說 西 方 引 化。經 文 分 明,去 此 不 遠。若 論 相 說,里 數 有
十 萬 八 千,即 身 中 十 惡 八 邪,便 是 說 遠。說 遠 為 其 下 根,說 近 為 其 上 智。人 有 兩 種,法
無 兩 般。
Thiện tri thức! Công đức tu tự tánh nội kiến, bất thị bố thí
cúng dưỡng chi sở cầu dã. Thị dĩ phước đức dữ công đức biệt. Võ Đế bất thức
chơn lý, phi ngã tổ sư hữu quá.” Thứ Sử hựu vấn viết: “ đệ tử thường kiến tăng
tục niệm A Di Đà Phật, nguyện sanh tây phương. Thỉnh hòa thượng thuyết, đắc
sanh phủ? Nguyện vi phá nghi.” Sư ngôn: “ sử quân thiện thính, Huệ Năng dữ thuyết.
Thế Tôn tại Xá Vệ thành trung, thuyết tây phương dẫn hóa. Kinh văn phân minh,
khứ thử bất viễn. Nhược luận tướng thuyết, lý số hữu thập vạn bát thiên, tức
thân trung thập ác bát tà, tiện thị thuyết viễn. Thuyết viễn vi kỳ hạ căn, thuyết
cận vi kỳ thượng trí. Nhơn hữu lưỡng chủng, pháp vô lưỡng bát.
Thiện
tri thức! Công đức là cốt thấy trong tự tánh, không phải tìm cầu nơi việc bố
thí cúng dường. Vì phước đức và công đức khác nhau. Võ Đế không biết chơn lý,
chứ không phải Tổ sư chúng ta nói sai.
Thứ sử lại hỏi:Đệ tử thường thấy tại gia,
xuất gia niệm Phật A Di Đà cầu sanh Tây
phương tịnh độ, bạch Hòa thượng họ có vãng sanh không? Xin Ngài phá trừ nghi
hoặc này cho.
Sứ quân hãy nghe kỹ, tôi sẽ nói. Đức Thế
Tôn ở thành Xá Vệ nói Kinh Tây Phương Dẫn Hóa, kinh văn nói rõ ràng cách đây
không xa, nếu xét về tướng thì số dặm có tới mười vạn tám ngàn, chỉ cho mười
ác, tám tà trong thân, nên nói là xa. Nói xa là vì những người hạ căn mà nói.
Nói gần là vì bậc thượng trí. Người có hai hạng, chứ pháp thì không hai.
迷 悟 有 殊,見 有 遲 疾。迷
人 念 佛 求 生 於 彼,悟 人 自 淨 其 心。所 以 佛 言:『隨 其 心 淨 即 佛 土 淨。』使 君 東 方 人,但 心 淨 即 無 罪。雖 西 方
人,心 不 淨 亦 有 愆。東 方 人 造 罪,念 佛 求 生 西 方。西 方 人 造 罪,念 佛 求 生 何 國?凡 愚 不 了 自 性,不 識 身 中 淨
土,願 東 願 西。悟 人 在 處 一 般,所 以 佛 言:『隨 所 住 處 恒 安 樂。』使 君 心 地 但 無 不 善,西 方 去 此 不 遙。若 懷 不
善 之 心,念 佛 往 生 難 到。今 勸 善 知 識,先 除 十 惡 即 行 十 萬,後 除 八 邪 乃 過 八 千。
Mê ngộ hữu thù, kiến hữu trì tật. Mê nhơn niệm Phật cầu sanh
ư bỉ, ngộ nhơn tự tịnh kỳ tâm. Sở dĩ Phật ngôn: “tùy kỳ tâm tịnh tức Phật độ tịnh.”
Sử quân đông phương nhơn, đản tâm tịnh tức vô tội. Tuy tây phương nhơn, tâm bất
tịnh diệc hữu khiên. Đông phương nhơn tạo tội., niệm Phật cầu sanh tây phương.
Tây phương nhơn tạo tội, niệm Phật cầu sanh hà quốc? phàm ngu bất liễu tự tánh,
bất thức thân trung tịnh độ, nguyện động nguyện tây. Ngộ nhơn tại sứ nhứt bàn,
sở dĩ Phật ngôn: “tùy sở trụ xứ hằng an lạc.” Sử quân tâm địa đản vô bất thiện,
tây phương khứ thử bất diêu. Nhược hoài bất thiện chi tâm, niệm Phật vãng sanh
nan đáo. Kim khuyến thiện tri thức, tiên trừ thập ác tức hành thập vạn, hậu trừ
bát tà nãi quá bát thiên.
Do mê ngộ có khác nên thấy
có chậm mau. Người mê niệm Phật cầu sanh Tịnh độ, người ngộ tự tịnh tâm mình,
nên Phật dạy: “Do tâm tịnh mà Phật độ tịnh”.
Kẻ phàm phu không liễu đạt tự tánh, không
biết Tịnh độ trong tâm, nên nguyện Đông nguyện Tây. Còn người ngộ thì ở đâu
cũng thế. Cho nên, Phật dạy: “Tùy sở trú xứ thường an lạc”. [Ở chỗ nào cũng
hằng an vui]. Nếu Sứ quân được cái tâm địa không có chỗ nào bất thiện, thì Tây
phương cách đây không xa. Nếu ôm lòng bất thiện mà niệm Phật cầu vãng sanh thì
khó mà đến. Nay tôi khuyến cáo Thiện tri thức hãy từ bỏ mười điều ác, tức là đi
được mười vạn dặm. Sau trừ tám việc tà là đi thêm tám ngàn dặm. Mỗi niệm thường
thấy tánh, thường thực hành bình đẳng và chánh trực, thì đến Tây phương như
trong một khảy móng tay, bèn thấy Di Đà. Sứ quân chỉ cần thực hành mười thiện
nghiệp, thì cần chi phải nguyện vãng sanh. Còn cái tâm không chịu đoạn mười
điều ác thì Phật nào mà tới rước. Nếu ngộ được Đốn pháp vô sanh thì thấy Tây
phương tức khắc, không ngộ thì niệm Phật cầu vãng sanh, đường xa làm sao tới
được. Huệ Năng nay dời cõi Tây phương đến cho chư vị thấy ngay trước mắt, quý
vị có muốn không?
念 念 見 性,常 行 平 直,到
如 彈 指,便 睹 彌 陀。使 君 但 行 十 善,何 須 更 願 往 生?不 斷 十 惡 之 心,何 佛 即 來 迎 請?若 悟 無 生 頓 法,見 西 方
只 在 剎 那。不 悟 念 佛 求 生,路 遙 如 何 得 達。惠 能 與 諸 人,移 西 方 於 剎 那 間,目 前 便 見。各 願 見 否?」
Niệm niệm kiến tánh, thường hành bình trực, đáo như đàn chỉ,
tiện đổ Di Đà. Sử quân đản hành thập thiện, hà tu cánh nguyện vãng sanh? Bất đoạn
thập ác chi tâm, hà Phật tức lai nghênh thỉnh? Nhược ngộ vô sanh đốn pháp, kiến
tây phương chỉ tại sát na. Bất ngộ niệm Phật cầu sanh, lộ diêu như hà đắc đạt.
Huệ Năng dữ chư nhơn, di tây phương ư sát na gian, mục tiền tiện kiến. các nguyện
kiến phủ?”
Mỗi niệm thường thấy tánh, thường thực hành
bình đẳng và chánh trực, thì đến Tây phương như trong một khảy móng tay, liền
thấy Di Đà. Sứ quân chỉ cần thực hành mười thiện nghiệp, thì cần chi phải
nguyện vãng sanh. Còn cái tâm không chịu đoạn mười điều ác thì Phật nào mà tới
rước. Nếu ngộ được Đốn pháp vô sanh thì thấy Tây phương tức khắc, không ngộ thì
niệm Phật cầu vãng sanh, đường xa làm sao tới được. Huệ Năng nay dời cõi Tây
phương đến cho chư vị thấy ngay trước mắt, quý vị có muốn không?
眾 皆 頂 禮 云:「若 此 處 見,何 須 更 願 往 生?願 和 尚 慈 悲,便
現 西 方,普 令 得 見。」
Chúng
giai đảnh lễ vân: “ nhược thử xứ kiến, hà tu cánh nguyện vãng sanh? Nguyện hòa
thượng từ bi, tiện hiện tây phương, phổ linh đắc kiến.”
Đại chúng đảnh lễ và thưa: Nếu ngay ở
đây mà thấy được, thì cần chi phải nguyện vãng sanh? Xin Hòa thượng từ bi hiện
cảnh Tây phương cho, khiến tất cả đều được thấy.
師 言:「大 眾!世 人 自 色
身 是 城,眼 耳 鼻 舌 是 門,外 有 五 門,內 有 意 門。心 是 地,性 是 王。王 居 心 地 上,性 在 王 在,性 去 王 無。性 在 身 心 存,性 去 身 壞。佛 向 性 中 作,莫
向 身 外 求。自 性 迷 即 是 眾 生,自 性 覺 即 是 佛。慈 悲 即 是 觀 音,喜 捨 名 為 勢 至,能 淨 即 釋 迦,平 直 即 彌 陀;人
我 是 須 彌,貪 欲 是 海 水,煩 惱 是 波 浪,毒 害 是 惡 龍,虛 妄 是 鬼 神,塵 勞 是 魚 鱉。貪 瞋 是 地 獄,愚 癡 是 畜 生。善
知 識!常 行 十 善,天 堂 便 至。除 人 我,須 彌 倒;去 貪 欲,海 水 竭;煩 惱 無,波 浪 滅;毒 害 除,魚 龍 絕。
Sư
ngôn: “đại chúng! Thế nhơn tự sắc thân thị thành, nhãn nhĩ tỷ thiệt thị môn,
ngoại hữu ngũ môn, nội hữu ý môn.Tâm thị
địa, tánh thị vương. Vương cư tâm địa thượng, tánh tại vương tại, tánh khứ
vương vô. Tánh tại thân tâm tồn, tánh khứ thân hoại. Phật hướng tánh trung tác,
mạc hướng thân ngoại cầu. Tự tánh mê tức thị chúng sanh, tự tánh giác tức thị
Phật. Từ bi tức thị Quán Âm, hỷ xả danh vi Thế Chí, năng tịnh tức Thích Ca,
bình trực tức Di Đà; nhơn ngã thị tu di, tham dục thị hải thủy, phiền não thị
ba lãng, độc hại thị ác long, hư vọng thị quỷ thần, trần lao thị ngư miết. Tham
sân thị địa ngục, ngu si thị súc sanh. Thiện tri thức! thường hành thập thiện,
thiên đường thiện chí. Trừ nhơn ngã, tu di đảo; khử tham dục, hải thủy khát;
phiền ão vô, ba lãng diệt; độc hại trừ, ngư long tuyệt.
Sư dạy: Đại chúng! Sắc thân
con người là thành, mắt tai mũi lưỡi là cửa, ngoài có năm cửa, trong có cửa ý.
Tâm là đất, tánh là vua, vua ở trên đất tâm, tánh ở thì vua ở, tánh đi thì vua
đi. Tánh còn thì thân tâm còn, tánh đi thì thân tâm hoại. Phật do nơi tánh mà
tìm, chớ tìm bên ngoài thân. Tự tánh mê tức là chúng sanh. Tự tánh giác tức là
Phật. Từ bi là Quán Âm, hỷ xả là Thế Chí, năng tịnh là Thích ca, bình trực là
Di Đà. Tâm nhân ngã là núi Tu Di, tâm tà vạy là biển cả, tâm phiền não là sóng
cồn, tâm độc hại là rồng rắn, tâm dối trá là quỷ thần, tâm trần lao là tôm cá,
tham sân là địa ngục, ngu si là súc sanh. Thiện tri thức! Thường làm mười thiện
nghiệp, thì thiên đường hiển hiện. Trừ tâm nhân ngã, thì núi Tu Di sụp đổ, bỏ
tâm tà vạy thì nước biển khô cạn, không phiền não thì sóng lặng, độc hại tiêu
thì cá tôm hết.
自 心 地 上 覺 性,如 來 放
大 光 明;外 照 六 門 清 淨,能 破 六 欲 諸 天;自 性 內 照,三 毒 即 除;地 獄 等 罪 一 時 銷 滅,內 外 明 徹 不 異 西 方。不 作 此 修,如 何 到
彼?」大 眾 聞 說,了 然 見
性,悉 皆 禮 拜,俱 歎 善 哉。唱 言:「普 願 法 界 眾 生,聞 者 一 時 悟 解。」師
言:「善 知 識!若 欲 修 行,在 家 亦 得,不 由 在 寺。在 家 能 行,如 東 方 人 心 善;在 寺 不 修,如 西 方 人 心 惡。但 心 清 淨,即
是 自 性 西 方。」
Tự tâm địa thượng giác tánh, Như Lai phóng đại quang minh;
ngoại chiếu lục môn thanh tịnh, năng phá lục dục chư thiên; tự tánh nội chiếu,
tam độc tức trừ; địa ngục đẳng tội nhứt thời tiêu diệt, nội ngoại minh triệt bất
dị tây phương. Bất tác thử tu, nhu hà đáo bỉ?” Đại chúng văn thuyết, liễu nhiên
kiến tánh, tất giai lễ bái, câu thán thiện tai. Xướng ngôn: “phổ nguyện pháp giới
chúng sanh, văn giả nhứt thời ngộ giải.” sư ngôn: “Thiện tri thức! nhược dục tu
hành, tại gia diệc đắc, bất do tại tự. Tại gia năng hành, như đông phương nhơn
tâm thiện; tại tự bất tu, như tây phương nhơn tâm ác. Đản tâm thanh tịnh, tức
thị tự tánh tây phương.”
Ngay trên mãnh đất tự tâm,
cái giác tánh, tức Phật Như Lai phóng đại quang minh, bên ngoài chiếu ra sáu
cửa thanh tịnh, có thể phá được sáu cõi trời Dục giới, tự tánh chiếu bên trong,
thì ba độc dứt trừ, các tội báo địa ngục đồng thời tiêu diệt. Trong ngoài sáng
suốt thì có khác gì cõi Tây phương? Không tu như thế, thì làm sao đến cõi ấy?
Đại chúng nghe nói, đều thấy rõ tự tánh,
đồng đảnh lễ tán thán, nguyện khắp pháp giới chúng sanh nghe đó đều được giải
ngộ
Sư dạy:Thiện tri thức! Nếu tu hạnh này thì
tại gia vẫn tu được, không cần ở chùa. Tại gia làm được vậy thì như người
phương Đông mà tâm lành, ở chùa mà không tu thì như phương tây mà làm ác. Chỉ
cần tâm thanh tịnh thì tự tánh là Tây phương.
韋 公 又 問:「在 家 如 何
修 行?願 為 教 授。」師 言:「吾 與 大 眾 說 無 相 頌。但
依 此 修,常 與 吾 同 處 無 別;若 不 依 此 修,剃 髮 出 家 於 道 何 益?頌 曰:
Vi công hựu vấn: “ tại gia như hà tu hành? Nguyện vi giáo thọ.”
Sư ngôn: “ ngô dữ đại chúng thuyết vô tướng tụng. đản y thử tu, thường dữ ngô đồng
xứ vô biệt; nhược bất y thử tu, thế phát xuất gia ư đạo hà ích? Tụng viết:
Vị thứ sử hỏi:Tại gia làm
sao tu hành, xin Đại sư chỉ dạy.
Sư nói: Tôi nay nói
bài tụng Vô tướng cho đại chúng. Chỉ cần y theo đó mà tu, thì không khác gì
cùng ở một chỗ với tôi. Nếu không tu theo đó, thì có cạo tóc xuất gia cũng
không ích gì cho đạo. Tụng rằng:
「心 平 何 勞 持 戒,
行 直 何 用 修 禪!
恩 則 孝 養 父 母,
義 則 上 下 相 憐,
讓 則 尊 卑 和 睦,
忍 則 眾 惡 無 諠,
若 能 鑽 木 出 火,
淤 泥 定 生 紅 蓮。
苦 口 的 是 良 藥,
逆 耳 必 是 忠 言,
改 過 必 生 智 慧,
護 短 心 內 非 賢。
日 用 常 行 饒 益,
成 道 非 由 施 錢,
菩 提 只 向 心 覓,
何 勞 向 外 求 玄。
聽 說 依 此 修 行,
西 方 只 在 目 前。」
Tam
bình hà lao trì giới
Hành
trực hà dụng tu thiền
Ân
tắc hiếu dưỡng phụ mẫu,
Nghĩa
tắc thượng hạ tương lân,
Nhượng
tắc tôn ty hòa mục
Nhẫn
tắc chúng ác vô tuyên
Nhược
năng toản mộc xuất hỏa,
ứ
nên định sanh hồng liên
Khổ khẩu
đích thị lương dược
Nghịch
nhĩ tất thị trung ngôn,
Cải quá
tất sanh trí huệ,
Hộ đoản
tâm nội phi hiền.
Nhựt dụng
thường hành nhiêu ích
Thành đạo
phi do thí tiền,
Bồ đề chỉ
hướng tâm mích,
Hà lao
hướng ngoại cầu huyền.
Thính
thuyết y thử tu hanh,
Tây
phương chỉ tại mục tiền.
Tâm bình chính là giữ giới Hạnh thẳng đâu cần tu thiền
Ơn thì phụng dưỡng cha mẹ
Nghĩa thì trên dưới thương nhau
phải biết tôn ti hòa mục
Nhẫn thì mọi lỗi không còn
Nếu cưa được cây lấy lửa
Bùn đọng quyết mọc sen hồng
Thuốc đắng miệng là thuốc tốt
Trái tai tức là lời ngay
Sữa lỗi liền sanh trí tuệ
Ôm lầm tâm chẳng phải hiền
Hằng ngày thường làm việc ích
Hành đạo không do xuất tiền
Bồ đề ngay nơi tâm kiếm
Ích chi hướng ngoại tìm cầu
Nghe giáo nương theo tu hành
Thiên đường ở ngay trước mắt.
師 復 曰 :「善 知 識!總 須
依 偈 修 行,見 取 自 性,直 成 佛 道。時 不 相 待,眾 人 且 散,吾 歸 曹 溪。眾 若 有 疑,卻 來 相 問。」時,刺 史 官 僚、在 會 善
男 信 女,各 得 開 悟,信 受 奉 行。
Sư phục viết: “thiện tri thức! tổng tu y kệ tu hành, kiến thủ
tự tánh, trực thành Phật đạo. Thời bất tương đãi, chúng nhơn thả tán, ngô quy
tào khê. Chúng nhược hữu nghi, khước lai tương vấn.” thời, Thứ Sử quan liêu, tại
hội thiện nam tín nữ, các đắc khai ngộ, tín thọ phụng hành.
Sư
lại dạy: Thiện tri thức! Hãy nương theo đó tu hành mà thấy tánh thành Phật.
Pháp không thể đợi, các ngươi nên giải tán. Tôi nay về Tào Khê. Có ai nghi điều
gì thì cứ đến hỏi.
Vi thứ sử, quan liêu trong hội cùng thiện nam tín nữ đều
được khai ngộ, tín thọ phụng hành.